Tìm kiếm bài viết theo id

Cao thủ võ Việt- Tiếu Ngạo Giang Hồ

Thảo luận trong 'Chuyện trò' bắt đầu bởi trihominh, 18/7/11.

ID Topic : 3551900
Ngày đăng:
18/7/11 lúc 20:23
  1. trihominh Tửu Lượng Vô Biên

    Tham gia ngày:
    19/3/09
    Tuổi tham gia:
    15
    Bài viết:
    2,553
    Phần 1: Cao nhân Không Động phái và triệu bước chân tìm đệ tử chân truyền



    Ngoài cặp song kiếm vô địch hùng bá trên võ đài suốt bao năm, lão võ sư huyền thoại này còn làm chủ 20 binh khí và nhiều ám khí độc môn hiếm có trên đời.


    Làng võ nói về Huyền Công Đạo Trần Công, Nguyên chủ tịch Hội đồng cố vấn tối cao của Hội võ thuật Hà Nội, thế này: Từ thủa nhỏ, ông đã được sư phụ người Trung Hoa rèn cặp nên vũ thuật kinh hồn, nhất là khi thi triển Song hổ vĩ côn, Tam tiết côn, Không động kiếm, Cửu long tiên, Huyết kỳ... Lão võ sư là một cây đại thụ, một tên tuổi lẫy lừng trong làng võ Việt, luận về võ học thì là bậc kỳ tài, thiên hạ ít người sánh kịp... Chính bởi công phu xuất chúng nên lão võ sư Trần Công đã nhiều lần được biểu diễn võ cho Bác Hồ xem, thậm chí còn được Người bất ngờ vào tận nhà ân tình thăm hỏi.



    Huyền Công Đạo Trần Công



    Cao nhân ẩn tích

    Tuy tên tuổi lẫy lừng nhưng trong số những võ sư cao thủ mà tôi đã may mắn được gặp thì lão võ sư Trần Công là người... khó tìm nhất. Ông mai danh ẩn tích đã hơn chục năm nay. Hỏi nơi ở của ông, người thì bảo, đã đến nhà rất nhiều lần, nhưng chính bởi cái sự thân thuộc ấy nên chẳng ai nhớ số nhà. Người khác thì lại nói, bởi lão võ sư thích lang bạt giang hồ nên duyên số gặp nhau... ngoài đường chứ nhà ở đâu thì không được biết.

    Chính bởi sự quy ẩn lạ lùng ấy mà nhiều năm nay, nhiều môn sinh mến mộ ông đã nháo nhác kiếm tìm ông khắp nơi những mong được ông chỉ giáo, san sẻ cho ít nhiều những tinh hoa võ thuật mà ông đã cần mẫn gom góp cả đời, mà vẫn không gặp được.

    Điện thoại khắp nơi, tôi cũng kiếm được một thông tin... mù mờ: Có người đã từng gặp lão võ sư ở gần dốc Tam Đa, đường Hoàng Hoa Thám.

    Lang thang tìm kiếm ở đó suốt mấy ngày trời, mới hay rằng, trước đây lão võ sư từng sống ở đó, nay chuyển nhà đi đâu thì không ai biết. Mãi sau này, may mắn được lão võ sư Phan Dương Bình (làng võ còn gọi là Bình “bún”, môn phái Vịnh Xuân, Vovinam) và võ sư Nguyễn Ngọc Nội (phái Vịnh Xuân) giúp đỡ, tôi mới biết được nơi ở mới của bậc tiền bối tài danh.

    Sau cuộc họp Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội, hỏi các đồng đạo, võ sư Nội đã điện thoại báo rằng, lão võ sư Trần Công ở dốc Liễu Giai, gần sân Quần Ngựa. Ra tận nơi hỏi, nhưng lạ lùng thay, lão võ sư nổi tiếng thì không ai biết, chỉ biết một ông già tuổi trạc 90 da dẻ hồng hào vẫn thường hay đạp xe qua lại. Đoán rằng ông cụ khoẻ khoắn ấy đích thị là người tôi muốn gặp nên tôi đã vội vàng tìm tới tận nhà. Cơ duyên, người như tiên như phật ấy chính là lão võ sư.

    “Chú khách” kỳ dị

    Lão võ sư đón tôi trong căn phòng chật chội, trên tường, xung quanh chiếc giường một, treo chi chít những binh khí, nào côn, nào kiếm, thứ nào cũng bóng nhẫy mồ hôi.

    Ông bảo, đó là những bảo vật kỉ niệm của cả cuộc đời theo đuổi nghiệp võ của ông. Tuổi đã 90 nhưng lão võ sư còn tráng kiện lắm. Nhìn ông, tuyệt nhiên không thấy dấu hiệu gì của bệnh tật. Ông theo nghề võ từ năm lên 8 tuổi. Ông bảo, với võ thuật, ông như có duyên tiền định.

    Sinh ra ở Nam Định, thế nhưng vì đói, mẹ ông đã cho ông vào thúng, quẩy đi khắp nơi bởi cuộc mưu sinh. Bát cơm, manh áo đã đưa hai mẹ con ra Hà Nội, trọ ở xóm Dinh, làng Vạn Bảo bây giờ. Hai mẹ con sống qua ngày bằng thúng ốc luộc mà mẹ ông tần tảo đội trên đầu đi bán rong khắp phố.

    Năm ông lên 8 tuổi, có chút vốn, mẹ ông mở sạp hàng sáo ngay tại nhà. Ông tung tăng phụ giúp bà bán hàng, khi rảnh lại cùng đám bạn cùng tuổi mải mê đánh khăng, đánh đáo ngay trước cửa nhà.






    Ông còn nhớ lắm, nhà ông khi ấy ở tận cuối con ngõ vắng vẻ, vậy mà hầu như hôm nào cũng thấy “chú khách” (người Trung Quốc) quẩy đôi xọt thuốc qua, rao bằng cái giọng lơ lớ: “Ai thuốc đê!”. Mỗi lần đi qua chỗ ông và đám bạn đang chơi, chú khách lại dừng bước, rồi cứ thế, đứng nhìn ông đăm đăm.

    “Chú khách” là người tốt bụng, mặc dù suốt ngày nhễ nhại mồ hôi với gánh thuốc trên vai, nhưng “chú” chỉ bốc thuốc và chữa bệnh không công. Ông chưa từng thấy “chú khách” lấy tiền của ai bao giờ.

    Một trưa, trời nắng như đổ lửa, dừng chân trước nhà ông, sau khi ngắm nhìn ông vẫn ánh mắt đăm đăm ấy, “chú khách” bỗng quay sang mẹ ông hỏi: “Trời nắng tôi khát quá hà. Bà cho tôi xin hớp nước cho đỡ khát à!”.

    Nói vừa dứt câu, chẳng cần biết chủ nhà đồng ý hay không, “chú khách” đã quẳng đôi sọt thuốc, chạy ào về phía sau nhà, nơi có chum nước mà mẹ con ông vẫn dùng để thổi nấu. Thấy vậy, mẹ ông đã hoảng hốt: “Không uống nước ở đó được đâu bác ạ! Đau bụng chết, bác vào đây, nhà tôi có nước chè xanh!”. Vừa nói, mẹ ông vừa rót bát nước chè khói vẫn còn nghi ngút.

    “Bà tốt quá à! Thật ra, tôi vào đây không phải để xin nước đâu à!”. “Chú khách” đáp lời mặt đầy bí ẩn. “Thế bác không khát nước à?! Bác vào đây làm gì vậy?”. Mẹ ông hốt hoảng hỏi. “Tôi thấy bà có đứa con tốt quá à! Tôi muốn xin nó về làm con nuôi à?!”.

    Nốt ruồi son đặc chủng

    “Không! Không được đâu! Tôi có mỗi mình nó thôi!”. Mẹ ông phản đối quyết liệt nguyện vọng của vị khách vừa thân quen lại vừa xa lạ ấy. “Không, tôi không mang nó đi đâu đâu! Tôi chỉ muốn nhận nó làm con nuôi để giáo nó thôi à!”.

    “Giáo nó, bác định giáo nó cái gì?”. Mẹ ông xuôi giọng. “Tôi muốn dạy võ cho nó. Dạy võ cho nó khoẻ, không bị ai bắt nạt nữa à! Mấy lần nhìn nó, tôi biết nó là nhân tài để luyện võ đấy à. Nó có một nốt ruồi nhỏ ở trên thái dương bên trái đấy, nốt ruồi ấy là tốt lắm à!”.

    Thấy “chú khách” nói về đặc điểm kỳ lạ của cậu con trai mình, mẹ ông vội vàng kéo ông lại, vén mớ tóc bờm xờm cạnh tai trái của ông lên. Bà giật mình khi biết “chú khách” nói chẳng sai. Ông có một nốt rồi son ngay giữa thái dương bên trái, nốt ruồi ấy bấy lâu tóc che kín, chẳng để tâm nên bà cũng không hề hay biết. Nghĩ đây là ý trời, vả lại, bấy lâu thấy “chú khách” là người tốt bụng, đường hoàng, nên bà đã gật đầu đồng ý.

    Sau bữa ấy, “chú khách” ghé qua nhà ông luôn. Mỗi lần đến thăm, “chú” chỉ xoa đầu, nắn tay nắn chân ông chứ chẳng dạy võ thuật như là đã nói. Mãi vài tháng sau, khi tình cảm giữa “chú” và mẹ con ông đã trở lên thân thiện, “chú” đã xin mẹ ông để “chú” được đưa ông về Hàng Buồm, nơi có cửa hàng thuốc và gia đình “chú” ở.

    Ngay hôm đầu tiên, “chú khách” đã gọi các con của mình lại và bảo họ biểu diễn võ thuật cho ông xem. Nghe lời cha, mấy đứa con lau nhau của chú khách lao vào thử tài nhau bằng những chiêu thức võ thuật vô cùng đẹp mắt. Xem bọn họ đánh nhau, ông thích lắm. Nhận ra vẻ thích thú của ông, “chú khách” khẽ gật đầu, ra chiều vô cùng mãn nguyện. Bữa ấy, “chú khách” cũng vẫn chưa dạy võ cho ông mà ngay lập tức lại đèo ông về bằng chiếc xe đạp bóng loáng.

    Trên đường đi, “chú khách” đã nói với ông rằng: “Sang Việt Nam, mục đích của ta là không phải đi bán thuốc đâu à! Ta muốn đi tìm một đệ tử chân truyền. Tìm được con rồi, ta muốn con chăm chỉ luyện tập theo tất cả những gì ta chỉ bảo! Con nhớ không!”.

    Hồi ấy, còn bé, nghe “chú khách” nói thế nào thì ông chỉ biết gật đầu thế đó chứ biết gì về hoài bão của người thầy đến từ Trung Quốc xa xôi. Sau này, khi lớn hơn một chút, ông mới biết “chú khách”, người đã coi ông như con, suốt đêm ngày truyền thụ cho ông những tinh hoa võ học chính là Mao Diệp Xi, giang hồ còn gọi là Xần Xi, là đệ tử nổi danh của môn phái Không Động, một môn phái lừng lẫy ở Trung Hoa đại lục.

    Vì những biến cố của đất nước, Mao sư phụ đã phải đem gia đình sang sinh sống ở Hà Nội. Đã nhận nhiều đệ tử, nhưng chưa tìm được bậc kỳ tài, sợ những bí kíp võ công của môn phái mà mình đã dày công tu luyện bị thất truyền nên Xần Xi đã phải mượn gánh thuốc, đi triệu bước chân lang thang khắp nơi để tìm người nối nghiệp.

    Bắc tiến

    Từ hôm đó, chiều nào cũng vậy, Mao sư phụ đạp xe đến tận nhà để đón ông về Hàng Buồm luyện võ. Thời gian đầu, Mao sư phụ chỉ dạy ông mỗi hai “chiêu thức” vô cùng đơn giản ấy là xoay bi và đẩy bóng. Đưa cho ông những viên bi sắt to như quả quýt, Mao sư phụ bảo, cứ vê, xoay chúng trong lòng bàn tay, khi thì một, lúc thì hai, khi nữa thì ba viên liền lúc.

    “Chơi” với bi chán thì quay sang đẩy bóng. Những quả bóng cao su rất lạ, thứ đó ông cũng không biết sư phu mình kiếm từ đâu. Mới đầu, Mao sư phụ bảo ông phải đẩy, ép quả bóng nhỏ nhất vào tường. Khi quả bóng đó bị lực từ tay ông đẩy, ép chặt hai mặt vào nhau thì mới thôi.


    Đẩy được hai tay thì chuyển sang dùng một tay. Những quả bóng cứ to dần lên theo thời gian ông luyện tập. Gần hai năm sau, khi mà đứng kẹp giữa hai bức tường, hai bên là hai quả bóng to nhất, dùng lực, ông đẩy chúng bẹp dúm sát tường thì Mao sư phụ mới bắt đầu dạy ông quyền cước.

    Cứ thế, thời gian thấm thoắt thoi đưa, năm ông 12 tuổi, ông đã thông thạo tất cả những chiêu thức võ thuật mà Mao sư phụ truyền dạy. Luyện võ 10 năm mà không luyện khí thì cũng coi như chưa từng biết võ, điều này thì những đệ tử của Không Động, môn phái thiên về nội công rành hơn ai hết. Bởi thế, muốn rèn rũa “viên ngọc quý” của mình được toả sáng muôn bề, Mao sư phụ đã đi đến một quyết định quan trọng: Đưa cậu học trò cưng về Trung Quốc. Theo Mao sư phụ thì ở quê hương ông có một nơi luyện khí công vô cùng lý tưởng, đó là đỉnh Thái Sơn, cách nơi ở cũ của ông vài chục cây số.

    Vậy là, dù không muốn phải xa đứa con duy nhất của mình, nhưng trước sự tận tình của Mao sư phụ, mẹ ông cũng đành gạt lệ tiễn ông đi.

    Luyện nội công ở đỉnh Thái Sơn

    Nhà Mao sư phụ ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông. Lão võ sư Trần Công bảo, đến giờ, ông vẫn còn nhớ như in ngôi nhà số 3 phố huyện ấy. Sang đến nơi, ông mới biết mình có rất nhiều sư ca, sư tỉ. Thấy Mao sư phụ về, họ đã lũ lượt kéo đến nhà chúc mừng. Thấy ông lanh lẹ lại rất đỗi hồn nhiên, nói tiếng Trung Quốc thì ngô nghê nên họ rất thích. Họ chiều chuộng ông hệt như cậu út trong nhà.

    Tại đây, ông được Mao sư phụ đặt cho một cái tên Trung Quốc: Xần Cóng. Và, cũng tại đây, ngày nào cũng vậy, khi trời mới tờ mờ sáng, Mao sư phụ đã kéo ông dậy, rồi bằng xe đạp, đèo ông vượt mấy chục cây số tới núi Thái Sơn. Để xe dưới chân, hai thầy trò chạy bộ lên đỉnh núi. Nơi chân mây ấy, hai thầy trò mải miết luyện khí công, hệt như... đôi bạn tri âm. Khi mặt trời khuất bóng, thầy trò mới ngừng việc luyện tập, xuống núi và thầy lại đèo trò về.

    Đến giờ, lão võ sư Trần Công không thể nhớ chính xác mình đã luyện võ với Mao sư phụ ở Trung Quốc bao nhiêu năm. Chỉ biết, khi đi ông còn là một cậu bé ngây ngô, khi trở về thì đã là một chàng trai cường tráng, sức mạnh phi thường.

    Ngày ấy, bởi nhớ thương đứa con độc nhất, mẹ ông đã mấy lần biên thư gọi ông về. Thương mẹ, ông đành lưu luyến tạm biệt người thầy khả kính. Trước hôm lên đường trở về Việt Nam, trước mặt tất cả các đệ tử của mình, Mao sư phụ đã gọi ông lại mà rằng: “Tất cả những tuyệt kỹ võ công, ta đã dạy cho con hết cả. Con phải nhớ rằng, sau này khi ra đời, không bao giờ được dùng võ để chèn ép mọi người. Nếu làm trái lời thì đừng bao giờ nghĩ đến ta nữa!”.

    Cũng buổi ấy, Mao sư phụ đã làm một việc khác thường, ấy là đặt cho ông pháp danh Huyền Công Đạo. Việc đặt pháp danh đó, từ trước đến nay, Mao sư phụ chưa từng ưu ái với bất cứ đệ tử nào...

    Ông về Việt Nam được ít lâu thì Mao sư phụ mất. Theo các sư ca, sư tỉ của ông nói lại thì khi hấp hối, Mao sư phụ đã luôn miệng gọi tên ông. Theo nguyện vọng của Mao sư phụ là muốn được về phương Nam thăm ông, người đệ tử hiếu đễ, tài ba, các sư ca của ông đã tiễn đưa người thầy của mình về cõi vĩnh hằng bằng không táng. Thi hài của Mao sư phụ được hoả táng, sau đó gói gọn gàng trong ống nứa hệt như người ta làm pháo thăng thiên, hướng về phương Nam mà đốt...
    Nguồn : http://www.giaoduc.net.vn/xa-hoi/40-...o-giang-h.html
     
  2. trihominh Tửu Lượng Vô Biên

    Cao thủ võ Việt: Cao thủ Phật gia và chuyện thi đấu nhường… 3 đòn
    Trong số những võ sư nổi tiếng mà tôi đã gặp, dù sinh năm 1958 nhưng ông vẫn là người trẻ nhất. Thế nhưng, tài không đợi tuổi, đến giờ, ông đã có một võ nghiệp mà rất nhiều võ sư phải ao ước, thán phục.






    Ông là võ sư Băng Sơn, (tên thật là Bùi Quốc Sơn), Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia, đệ tử chân truyền của Chưởng môn đời thứ 44, môn phái Thiếu Lâm Phật Gia, đại sư người Trung Quốc, Lý Chấn Hòa. Võ lâm giang hồ còn biết đến ông với tư cánh là đệ tử cuối cùng trong nhóm Thập nhị đại đồ đệ (pháp danh Bắc Phong Chân Nhân) của đại sư, Chưởng môn phái Võ lâm Côn Luân, Thanh Hư Chân Nhân Đoàn Tâm Ảnh.

    Bởi muốn hoằng dương tinh thần võ đạo, lòng nhân ái và sự bao dung, Bắc Phong Chân Nhân và các môn sinh của mình còn nổi tiếng ở cách hành xử lạ thường khi tỉ thí võ nghệ: Luôn nhường trước đối phương trước 3 đòn rồi mới xuất chiêu đánh trả.

    Duyên tiền định

    Quê ông ở Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tổng Mao Điền ngày trước nổi tiếng là đất học, với 128 vị tiến sĩ, trong đó nổi tiếng nhất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời phong kiến, nhà Mạc đã cho lập Văn miếu để tôn vinh sự hiếu học của nhân dân xứ này. Ngoài văn, Mao Điền cũng nổi tiếng về võ, mà bằng chứng là thời giặc Pháp đô hộ, đội du kích Mao Điền đã trở thành nỗi khiếp sợ đối với kẻ thù bằng những chiến công vang dội ở khắp đường 5.

    Tại đất ấy, dòng họ Bùi Xuân của võ sư Băng Tâm cũng nổi tiếng bởi tinh thần thượng võ với các bài võ gia truyền như võ gậy, lăn khiên, song đao… Ông nội ông, cụ Bùi Xuân Cật, còn gọi là Trương Cất được võ lâm đương thời ái mộ bởi thông thạo nhiều đòn hay thế hiểm của Long quyền, Hổ quyền, Ngọc trản, Thiết lĩnh…

    Lớn lên trong “môi trường” ấy, được mọi người rèn rũa tối ngày nên khiếu võ trong ông đã “có đất” sinh sôi.

    Gia đình ông chuyển ra Hà Nội đúng khi nghề võ suy tàn. Bởi thế, ông được mọi người “chuyển hướng”, bắt quay sang “học văn” vì nghĩ đó là đường lập thân tốt nhất.
    Thế nhưng, như cái duyên trời định, dòng máu võ thuật trong ông vẫn không khi nào ngưng chảy. Ngày ấy, nhà ông ở phố Huế, ông hay lang thang cùng đám bạn ra ga Hà Nội chơi. Trẻ con, bởi hiềm khích với đám choai choai ở ga nên nhiều lần hai “băng” đã đánh nhau biêu đầu, sứt trán.

    Một bữa, ra đó chơi, bị “phục kích” bất ngờ, chậm chân, ông đã bị đám “đầu gấu” quây vào góc ga, “hứa hẹn” một trận đòn tới số. Đang lúc nguy khốn, như trong chuyện kiếm hiệp, không biết từ đâu, một cô bé xinh xắn chạc tuổi ông bất ngờ xuất hiện. Thân thủ nhanh nhẹn, xuất chiêu biến ảo, chỉ trong giây lát cô bé đã khiến mấy tên ma cà bông ngã xõng xoài, ù té mỗi đứa một nơi.

    Thấy cậu nhóc bị thương, da thịt bầm dập, cô bé đã khẩn khoản mời cậu về nhà để cho cha mình chữa chạy. Nhà cô bé ở khu Trại Nhãn (La Thành- Hà Nội), nơi ấy khi đó toàn những ngôi nhà lụp xụp của dân tứ xứ. Trên đường về nhà, cô bé ấy bảo, cha cô là người Trung Hoa.

    Ông sang Việt Nam sinh sống đã lâu và cũng một cơ duyên tình cờ, cô được nhận làm con nuôi của ông cụ. Nhà cô bé cũng tạm bợ như bao ngôi nhà ở khu vực ấy, chỉ có điều rộng rãi hơn và phía trước, sau đều có khoảng sân rộng được nện bằng lì, chắc nịch.

    Khoảng sân ấy chắc chắn là để tập luyện quyền cước - là người đã từng tập võ, cậu bé Sơn thầm đoán. Đón cô con gái nuôi ở cửa, sau khi nghe cô nói chuyện (bằng tiếng Trung Quốc), người đàn ông có khuôn mặt hiền hậu nhưng ánh mắt thì quắc thước, tinh anh đã vội vàng vời cậu bạn mới quen của con mình vào trong.

    Võ sư Băng Tâm kể, chỉ bằng một phương thuốc gia truyền bôi ngoài da, như có phép tiên, các vết bầm tím trên người ông đã dịu mát và ít phút sau thì lành hẳn như chưa từng bị va đập bao giờ. Thấy con mình cần có bạn và cậu bé mới quen cũng hiền lành nên khi tiễn ra cổng, ông già người Tầu ấy đã thân thiện mời ông khi rảnh hãy cứ đến nhà chơi.

    Cao nhân lộ tướng

    Mấy ngày sau, thấy nhớ bố con ông lão tốt bụng, cậu bé Sơn lại tìm ra Trại Nhãn. Gọi cửa mãi mà không thấy ai ra mở, cậu đành lặng lẽ đẩy cổng bước vào. Trong nhà vẫn vắng hoe nhưng ở sân sau thì có tiếng hò hét, tiếng chân dậm huỳnh huỵch. Tò mò, cậu lại lặng lẽ tiến về nơi có những tiếng động lạ ấy.

    Qua khe cửa sổ, cậu đã hết sức bất ngờ bởi trong khoảng sân rộng chừng chục mét vuông đang có cuộc tỉ thí lạ lùng. Mấy người cao to lực lưỡng đang thủ thế nhằm vào ông lão chủ nhà, người đã thoa “thuốc tiên” cho cậu hôm nào. Một tiếng hô vừa đủ nghe nhưng rất dõng dạc vừa cất lên thì cả đám người ấy tung đòn ào về phía góc sân, nơi chủ nhà vẫn điềm nhiên đứng tấn.

    Võ sư Băng Tâm kể, trong đời, ông chưa thấy một trận so tài nào mãn nhãn đến vậy. Khi đối phương còn cách vài bước chân, ông lão người Tàu mới thi triển thân pháp. Thế nhưng, chỉ một cái nhún người, ông đã thoăn thoắt vòng đến trước mặt khắp lượt những đối thủ của mình.

    Và, mỗi lần “xuất hiện bất ngờ” ấy, ông đều nhứ những đòn rất hiểm vào tử huyệt đối phương. Quần thảo một hồi, tất cả dừng tay. Sau động tác chào nghiêm nghị, mấy người lực lưỡng hổn hển bảo: “Thân thủ của sư phụ thiên hạ vô song, chúng con còn phải học hỏi rất nhiều!”.

    Truớc lời khen ngợi ấy, ông lão chủ nhà chỉ cười hiền rồi khoát tay mời tất cả vào nhà.

    Vào đến nhà trong, thấy cậu nhóc loắt choắt đang đứng khép nép sau cánh cửa nhìn mình bằng ánh mắt vừa sợ hãi, vừa nể phục, ông lão người Tàu đã vẫy cậu lại, xoa đầu và hỏi: “Con có thích học võ không?”.

    Tim còn đang thình thịch đập, ông đã gật đầu bừa. “Tốt lắm! Ta thấy con cũng có khiếu đấy! Nếu thích học thì cứ đến đây, ta sẽ dạy cho! Đây là những đệ tử của ta, họ đã theo ta được cả chục năm rồi đấy!”.

    Chỉ vào những người vừa giao đấu với mình khi nãy, ông lão người Tàu ôn tồn giới thiệu. Vậy là từ dạo đó, cứ tối đến là ông lại trốn gia đình mà chạy bộ từ nhà sang khu Trại Nhãn.

    Khi tình cảm của hai người đã nặng sâu, ông lão người Tàu mới tiết lộ cho cậu học trò bé nhỏ của mình biết rõ thân phận thật của mình. Và, điều ấy đã làm cậu vô cùng bất ngờ, kinh ngạc. Có lẽ, dù có nằm chiêm bao cậu cũng không thể ngờ có ngày mình lại được gặp Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái nổi tiếng ở đất võ Trung Hoa: Thiếu lâm Phật gia.

    Ông tên là Lý Chấn Hoà, pháp danh là Băng Tâm (sinh năm 1889, quê ở tỉnh Hà Bắc), con trai của võ sư nổi tiếng và là Chưởng môn đời thứ 43 của môn phái, Lý Chấn Sinh. Bởi cuộc cách mạng dân quốc năm 1937 mà ông phải ly tán sang đất Việt.

    Những ngày đầu, ông kiếm sống nhờ nghề bảo tiêu cho các thương gia chạy hàng đường dài, sau đó thì ổn định cuộc sống nhờ nghề bốc thuốc, chữa bệnh. Như để cậu học trò thơ ngây thực sự tin tưởng vào những lời mình nói, ông lão người Tàu đã lật đật mở tủ lấy cho cậu xem ấn, kiếm- những bảo vật của môn phái mà chỉ người chưởng môn mới được quyền gìn giữ.

    Bởi khó khăn nên lễ kết nạp ông vào môn phái được đại sư chưởng môn tổ chức đơn giản nhưng đầy đủ thủ tục, nghi thức. Và, cũng tại buổi đó, Lý sư phụ đã đặt cho ông pháp danh theo pháp danh của người là Băng Sơn và nhận ông làm con nuôi.

    Theo Lý sư phụ rèn luyện thành thạo Ngũ hình quyền (Long- Hổ- Báo- Xà- Hạc) và tinh thông thập bát ban cùng các kỹ năng cơ bản của Thiếu lâm Phật gia, võ sư Băng Sơn lên đường nhập ngũ. Những tháng ngày quân trường này, bởi tính ham học hỏi, bởi cơ duyên, ông đã được tiếp xúc với nhiều người luyện võ ở khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các bản làng người dân tộc thiểu số sống rải rác khắp vùng cương thổ. Và, cũng từ những mối thâm tình ấy, ông đã được lãnh hội nhiều bí kiếp võ công thuộc kỳ dị, hiếm có ở đời.

    Xuất ngũ năm 1984, quẳng ba lô về nhà, ông vội vàng tìm đến nơi ở của Lý sư phụ. Dù đã mấy xuân nữa trôi qua nhưng sư phụ ông vẫn giữ nguyên phong độ ngày nào. Và, để kiểm tra xem sự tiến bộ của cậu học trò yêu sau mấy năm xa cách, Lý sư phụ cùng ông đã có cuộc so tài nảy lửa.

    Sau cuộc đấu đó, Lý sư phụ vô cùng mãn nguyện. Vỗ vai ông, đại sư bảo: “Khi đi con được 1 thì giờ về đã khá thêm tới 7- 8 phần!”.

    Khi đó, được sự dìu dắt của sư phụ và sư thúc Viễn Trí, cũng một cao nhân trong làng võ khi ấy, giữa năm 1985, ông đứng ra mở võ đường, chiêu nạp môn sinh. Và, cũng được phép của sư phụ chưởng môn, ông lấy tên võ phái là Võ lâm Phật gia, ý chỉ môn võ xuất phát từ cửa thiền, được phóng tác theo lối chiến đấu của các loài mãnh thú. Khi võ phái được thành lập, thêm một trọng trách và vinh dự nữa khi ông được sư phụ mình giao cho nhiệm vụ là đại diện của môn phái, chịu trách nhiệm phát dương quang đại môn phái ở Việt Nam.

    Xuôi phương Nam tìm cao thủ

    Năm 1988, tuổi đã cao (99 tuổi) bởi nỗi nhớ quê hương, Lý sư phụ đã lên đường về nước. Chia tay nhau, nắm tay ông, đại sư nghẹn ngào bảo: “Tất cả những kỹ năng của ta, con đều đã lãnh hội vẹn toàn. Nay ta về cố quốc, chẳng biết có ngày hội ngộ nữa không? Trước khi ta đi, ta muốn dặn con một điều con nhớ mà cố gắng thực hiện. Con hãy tìm gặp cho kỳ được Thiện Tâm Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh để học thêm về đấu pháp. Trời Nam này, theo ta thì ông ấy là thiên hạ vô song. Hơn nữa, kinh nghiệm giang hồ là điều con còn thiếu mà ông ấy lại đã có thừa!”.

    Nghe theo lời Lý sư phụ, ngay sau đó ít lâu, ông khăn gói vào miền Nam tìm Thiện Tâm Thiền sư. Về vị đại sư tiếng nổi như cồn này thì bây giờ, người luyện võ vẫn ước ao trong đời được một lần tham vấn.

    Thiện Tâm Thiền sư là Chưởng môn phái Võ Lâm Côn Luân, ông còn được võ lâm biết tới qua pháp danh Thanh Hư Chân Nhân. Ông sinh năm 1900, ở miền Tây với cha là người Triều Châu (Trung Quốc) mẹ là người Rạch Giá. Ngay từ nhỏ ông đã sống đời phiêu bạt.

    Năm 12 tuổi, ông được cha mình gửi sang Trung Quốc, trú tại chùa Phi Lai Tự , núi Sơn Đầu, tỉnh Mã Dương Cương. Người được “giao nhiệm vụ” rèn cặp Tâm Ảnh thì ở Trung Hoa đại lục hiếm người nào lại không biết tới.

    Ông chính là Mộc Đức Thiền Sư, cố vấn cao cấp của ông Tôn Trung Sơn. Sau gần chục năm luyện tập võ nghệ, khi tuổi ngoài 20, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã được Mộc Đức Thiền Sư cùng đại sư Bắc Phong Hoà Thượng, Chưởng môn phái Thiếu lâm Bắc phái đứng ra tác hợp để cậu học trò yêu được kết tóc se duyên cùng cô nương Hoa Cẩm Tú (môn đồ của Bắc Phong Hoà Thượng).

    Sau đó, được sự đồng ý của hai vị đại sư phụ, vợ chồng Tâm Ảnh xuống núi hành hiệp với pháp hiệu là Ta Lô. Từ ngày xuống núi, tiếng tăm về cặp vợ chồng Tâm Ảnh- Cẩm Tú cũng lẫy lừng khắp mọi dẻo đất Trung Hoa.

    Người chồng thì khiến đối phương nể sợ bởi đường côn dũng mãnh, biến hoá khó lường. Người vợ thì nức tiếng giang hồ với vuông lụa bạch, mỗi lần xuất chiêu thì lấy mạng người ngay trong chớp mắt.

    Chiến tranh Hoa- Nhật bùng nổ, vợ chồng ly tán mỗi người một phương. Sau nhiều năm tìm kiếm nhưng vô vọng, Đoàn Tâm Ảnh đành phải quay trở lại quê nhà. Về đất Quảng Ngãi vào năm 1932, nhưng máu phiêu bạt, ông lại khăn gói sang Lào và Cam pu chia. Năm 1944, Tâm ảnh trở về Việt Nam, trú tại Bạc Liêu.

    Lúc này, ông nương nhờ cửa phật, sống ẩn dật ở các chùa chiền với pháp danh Thiện Tâm. Cũng thời kỳ này, bởi nạn cường hào ác bá, bởi sự hung đồ của quân cướp nước, ông đã đứng ra thành lập đảng Sao trắng với sứ mệnh là trừ khử những tên tham quan, ô lại, nhũng nhiễu dân nghèo.

    Chuyện đại sư Đoàn Tâm Ảnh hành hiệp trượng nghĩa thì bây giờ, dân các tỉnh miền Tây vẫn truyền tai nhau như một huyền thoại. Cứ khi mọi người yên giấc, bỏ áo thầy tu, khoác lên người bộ y phục kín mít, đại sư băng mình vào màn đêm tĩnh lặng. Và, lần nào đi thì lần chí ít cũng một tên ác ôn phải đền tội ác.

    Cứ sau mỗi lần ra tay, hiệp khách ấy luôn để lại trên “hiện trường” ám hiệu riêng của mình. Đó chính là chữ ký của ông. Chữ ký có hình ngôi sao 5 cánh.

    Suốt mấy năm trời, tại 6 tỉnh miền tây, uy danh, sự lợi hại của vị đại hiệp có chữ ký lạ lùng ấy đã làm thực dân Pháp và bè lũ tay sai khiếp đảm. Bởi thế, nhiều dinh thự của những tên quan lại nợ máu với nhân dân đã vội vàng “nâng cấp”, che chắn kín cổng cao tường để đề phóng thích khách.

    Thế nhưng, như từ dưới đất chui lên, như từ trên trời rơi xuống, tất cả các hệ thống canh phòng ấy đều là vô dụng. Hễ hiệp khách muốn “đòi nợ” ai thì dù có phòng bị nghiêm ngặt đến mấy thì kẻ đó vẫn phải rơi đầu.

    Năm 1944, đại sư Đoàn Tâm Ảnh lại tiếp tục cuộc đời phiêu bạt của mình. Ông đã lưu dấu chân mình ở khắp các nước như Mã Lai, Thổ Nhĩ Kỹ, Nhật Bản, Phi Luật Tân… Tại những nơi đó, ông đã truyền bá công phu cho rất nhiều người. Về lại Việt Nam năm 1954, ông bắt đầu thâu nạp môn sinh, mở võ đường dạy võ. Năm 1960 ông đã sáng lập Võ lâm đạo Việt Nam và thành lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam tại Cần Thơ.
     
  3. trihominh Tửu Lượng Vô Biên

    Cao thủ võ Việt: Thọ giáo đại sư và trận thử tài cay đắng
    Võ sư Băng Sơn kể, hành trình ông diện kiến Thiện Tâm Thiền Sư cũng vô cùng gian khổ. Vào đến Sài Gòn, thấy người muốn theo đại sư luyện võ nhan nhản ở khắp nơi ông mới nhận ra “cái khó” của mình. Đại sư là người danh tiếng, người luyện võ đều muốn được một lần diện kiến người chứ chưa nói chuyện được làm đệ tử, vậy mà ông lại muốn được người tận tâm chỉ giáo để hoàn thiện những kỹ năng võ thuật của mình trong thời gian ngắn thì quả thật, khó như chuyện bắc thang lên trời.
    Môn đồ cuối cùng trong Thập nhị đại đồ đệ
    Bởi lý do đó, vào Sài Gòn suốt mấy tuần trời, tìm đến khắp các võ đường của Võ lâm Côn Luân nhưng ông vẫn không một lần được thấy mặt người. Thấy ông vất vả, kỳ công, các trợ giáo của đại sư đã thương cảm, khuyên ông nên ra Bắc bởi đại sư không bao giờ tùy tiện gặp người mình không quen biết. Thế nhưng, nhớ lời dạy của Lý sư phụ trước lúc chia tay, ông quyết chí tìm gặp Thiện Tâm Thiền Sư cho kỳ được, dù có phải đi làm thuê để kiếm kinh phí trang trải trong những ngày chờ đợi.





    Thế rồi, cơ duyên, một lần đến viếng thăm một võ đường của đại sư nằm khuất sâu trong con hẻm nhỏ yên tĩnh, ông đã được một trợ giáo của đại sư đon đả mời vào. Chưa hết ngạc nhiên thì vị trợ giáo ấy đã bảo: “Đại sư đang chờ ông ở trong. Người biết thế nào ông cũng đến nên đã cố tình chờ đấy!”. Võ sư Băng Tâm kể, nghe câu nói đó, ông đã mừng đến nỗi ú ớ chẳng nói được câu nào. Quãng đường từ võ đài vào phòng đại sư chỉ vòng vèo qua mấy gian nhà mà ông thấy như xa vời vợi. Thế rồi, cái giây phút căng thẳng ấy đã nhanh chóng trôi qua khi cánh cửa phóng của đại sư bật mở. Đang ngồi trầm ngâm, thấy ông đại sư đã bật dậy, vồn vã: “Con vào đây! Ta chờ con cũng đã lâu rồi!”. Khi vừa an vị, một câu hỏi nữa của đại sư càng khiến ông thêm phần bối rối, khó hiểu: “Có phải Lý sư phụ giới thiệu con tới tìm ta?”. “Ôi, sao đại sư biết!?”. Trước câu hỏi đầy sự kinh ngạc ấy của ông, Thiện Tâm Thiền Sư chỉ khẽ mỉm cười.

    Sau này, ông đoán rằng, trước đây, bôn tẩu giang hồ, hai vị đại sư đã có lần hội ngộ nên đã hứa hẹn chuyện dìu dắt đệ tử cho nhau. Võ sư Băng Sơn kể ngay buổi gặp gỡ ấy, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã thử tài năng võ nghệ của người đệ tử tương lai của mình. Ngồi trên sập, đại sư bảo ông thi triển quyền cước ngay trong gian nhà chật chội ấy. Ban đầu, đại sư bắt ông đánh phá 2 cửa, rồi tăng lên 4 cửa, 6 cửa. Sau một thôi một hồi tri triển tất cả những kỹ năng mà mình có được, đã thấm mệt, đang chực dừng lại thì Thiện Tâm Thiền sư lại giục tiếp: “Đánh 8 cửa!”. Mệt, thêm nữa, trong căn phòng nhỏ ấy, không đủ diện tích để ông thực thi “mệnh lệnh” lạ lùng của vị đại sư nên ông đành chắp tay mà rằng: “Cái đó thầy con chưa dậy!”. Nghe ông nói vậy, đại sư bỗng phì cười. Thế nhưng, sau nụ cười ấy ông bỗng trầm ngâm, như đang mải mê với một suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Đăm đăm nhìn ông, bất chợt đại sư hỏi: “Con có muốn làm đệ tử ta không? Nếu đồng ý, ta sẽ đích thân chỉ giáo!?”.
    Câu hỏi ấy đã làm ông vô cùng sung sướng bởi đó là mục đích của chuyến đi này. Thế nhưng, nghĩ đến hàng ngàn đệ tử của đại sư, có mấy người được hưởng ân sủng đặc biệt ấy của người. Sợ hiềm khích, đố kỵ nên ông đã e dè: “Con sợ mình không có khả năng với lại còn sư huynh, sư đệ…”. “Cái đó thì con khỏi phải lo, khả năng của con đến đâu ta biết! Còn về môn phái, ta sẽ đặc cách cho con!”. Sự kiện Thanh Hư Chân Nhân đặc cách thu nạp đệ tử ấy chẳng mấy chốc lan rộng ra khắp sư môn, thậm chí cả làng võ phía Nam. Thế nhưng, với những người luyện võ chân chính thì lại cho đó là một điều vô cùng có lợi cho võ lâm, bởi họ tin vào con mắt tinh đời của Thiện Tâm. Và, cũng qua sự kiện ấy, võ lâm mới hiểu hết khát khao cháy bỏng mà suốt cả cuộc đời, Thanh Hư Chân Nhân chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. Từ năm 1960, khi sáng lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam và Võ lâm đạo Việt Nam, sáng tổ Đoàn Tâm Ảnh đã có dự định hưng chấn võ đạo Việt Nam cùng với Thập nhị đại đồ đệ như truyền thống của các danh sư Côn Luân thủa trước ở Trung Hoa. (Mỗi danh sư của phái Côn Luân đệ tử thì có thể có nhiều nhưng chỉ có 12 người được phong pháp danh và được truyền thụ tất cả những bí kíp võ công của môn phái). Võ sư Băng Tâm kể, trước đó, đã có 11 đại đồ đệ được đại sư Đoàn Tâm Ảnh thu nạp. Trong số họ, đã có nhiều người danh chấn giang hồ như Hàng Thanh, Lạc Hà, Hùng Phong, Vũ Đức… (các cao thủ này hiện đang sinh sống và truyền bá võ thuật ở nước ngoài). Thu nạp ông làm đại đồ đệ cuối cùng, thứ 12, Thanh Hư Chân Nhân đã đặt pháp danh cho ông là Bắc Phong Chân Nhân với uớc muốn, ông sẽ đưa môn phái phát triển rực rỡ ở miền Bắc.

    Được tặng bí kíp võ công giá hơn cả… 200 cây vàng

    Từ dạo đó, ngày nào cũng vậy, võ sư Băng Sơn kể, ông được đại sư trực tiếp truyền thụ võ công. Tuy là vô cùng yêu mến nhưng đại sư là người rất nghiêm khắc trong việc dạy học trò. Còn nhớ, khi mới vào, tiếp xúc với một số đồ đệ của đại sư, ai cũng bảo: “Ổng khó tính lắm! Lôi thôi là ông uýnh liền à!”. Và, võ sư Băng Sơn cũng không ngoại lệ. Tuy chưa bị “uýnh liền” nhưng Thanh Hư Chân Nhân đã ra với ông một điều kiện, các bài mà người dạy ngày hôm trước, hôm sau phải tinh thông cho kỳ được. Nếu không làm được như thế thì đại sư sẽ không dạy nữa và coi như duyên số giữa hai thầy trò đã đến ngày cạn phai. Chỉ ít lâu theo đại sư Đoàn Tâm Ảnh, ông đã lãnh hội được toàn bộ Thập bát chưởng công, võ công cơ bản của Côn Luân Bắc phái.

    Theo võ sư Băng Sơn thì võ công của Côn Luân thiên về việc tu thân luyện sức, toát lên tinh thần nhân ái, các môn sinh thích sống cuộc đời ẩn dật, không phô trương. Bởi thế, võ lâm giang hồ bảo, võ của Côn Luân là Võ tiên. Bởi còn công việc ngoài Bắc, nên khi đã thấm nhuần cái đạo của Võ tiên, thầy trò đành phải nói lời giã biệt. Năm 1991, nhân Đại hội Võ thuật toàn quốc lần thứ nhất, Thanh Hư Chân Nhân ra Hà Nội. Tái ngộ nhau, hai thầy trò mừng mừng tủi tủi. Võ sư Băng Tâm kể, lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy, đại sư đã trao cho ông cuốn Cẩm nang bí kíp. Đây là cuốn sách ghi lại đầy đủ những bí kíp võ công của môn phái Côn Luân, do đại sư tự tay mình chép lại. Về cuốn sách đặc biệt này, võ lâm giang hồ xem như báu vật. Có giai thoại rằng, trước đó, đã có rất nhiều nhà xuất bản đến nài nỉ xin mua lại bản thảo với số tiền khổng lồ. Riêng nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn đã trả cho đại sư 200 cây vàng nhưng ngài vẫn không chịu bán. Tiếp những nhà xuất bản ấy, đại sư chỉ bảo: “Sách quý, không bán được! Nhưng gặp ai, thấy thích, tôi sẽ tặng ngay!”. Cũng trong lần gặp ấy, đại sư đã bảo ông rằng: “Ta 18 năm lang bạt học võ thì đến giờ đã truyền cho con được 9 năm rồi. Khi nào vào đó (Sài Gòn) ta sẽ truyền nốt 9 năm con lại cho con!”. Nghe lời dạy của đại sư, thu xếp ổn thỏa công việc, năm 1995, ông lại khăn gói vào Sài Gòn hội ngộ với sư phụ mình. Và, chuyến đi này, theo võ sư Băng Tâm, khả năng hấp thụ võ công của ông đã khiến Thanh Hư Chân Nhân vô cùng mãn nguyện.

    Thọ giáo “Vương kiếm” Huyền Công Đạo

    Ra Bắc, vừa tập trung sức lực gây dựng môn phái, võ sư Băng Sơn còn được “Vương kiếm” Huyền Công Đạo Trần Công quý mến chỉ giáo thêm. Nhờ sự tận tình ấy, ông đã lãnh hội được ở đại sư nhiều môn binh khí đặc dị và những bí pháp có một không hai. Chuyện võ sư Băng Sơn diện kiến Huyền Công Đạo Trần Công giờ giới võ thuật vẫn truyền tai nhau như một giai thoại đẹp. Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng tăm của cụ Trần Công đã lâu, đặc biệt là khả năng khí công siêu phàm của cụ, đã nhiều lần ông muốn thử. Thế nhưng, ngại mình là bậc hậu sinh, lại thêm phần Huyền Công Đạo nổi tiếng kỹ tính nên loay hoay mãi mà ông chẳng biết chọn cách nào. Cho đến một buổi, sau hôm gặp đại võ sư ở Hội võ thuật Hà Nội, ông đã quyết định “diện kiến” sự cao thâm của bậc danh nhân làng võ ấy. Ông lấy côn và tự đánh một đòn rất nặng vào tay trái của mình. Cú “tự xử” ấy khiến tay ông bầm tím, xưng vù. Ôm cánh tay đau đớn ấy, ông đã gõ cửa nhà Huyền Công Đạo. Võ sư Băng Sơn kể, hôm ấy, ông đã được mấy phen kinh ngạc. Thấy bộ dạng của ông, Huyền Công Đạo như đã biết tỏng sự việc, nhưng ông vẫn vui vẻ mời ông vào. “Ông muốn ta phóng khí chữa vết thương phải không, được rồi, ông cứ ngồi nguyên đó, ta sẽ chữa cho!”. Nghe đại sư nói thế, biết là “âm mưu” của mình đã bị đại sư “bắt vị”, nhưng ông vẫn ngồi xuống và toan cởi bỏ hết áo rét để xem bậc trưởng lão… phóng khí chữa bệnh thế nào. Thế nhưng, việc ấy đã bị Huyền Công Đạo ngăn lại. “Không cần, ông cứ ngồi nguyên đó!”. Lời của đại sư khiến ông rất kinh ngạc bởi hôm đó trời rét như cắt da cắt thịt nên ông đã ních vào người rất nhiều áo rét. Ngoài 2 chiếc áo len, ông còn khoác thêm cả chiếc áo Na- tô ở ngoài. Bởi ăn vận như vậy nên ông không thể tin lão võ sư có thể truyền khí xuyên qua ngần ấy áo để mà chữa thương cho mình. Thế nhưng, lạ kỳ thay, sau khi vận khí, tay đại lão võ sư để cách vết thương của ông đến cả gang tay. Vậy mà, chỉ trong tích tắc, ông đã cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt ở ngay tại nơi “mình tự làm mình khổ” ấy. Tay ông lúc thì nóng ran, lúc thì lạnh toát. Chừng 3 phút sau, Huyền Công Đạo kết thúc công việc của mình. Và, thật bất ngờ, ngay sau đó, ông đã thấy tay mình tuyệt nhiên không còn đau đớn nữa. Vết thương thì chỉ qua đêm đó đã lành lại như chưa hề bị va đập gì.

    Một lần xuất chiêu cả đời day dứt

    Năm 1985, sau khi đi bộ đội về, võ sư Băng Sơn mở võ đường ở Hà Nội. Ông kể, cái thủa ban đầu cam khó ấy, để võ đường tồn tại được, ông đã phải nhiều lần đích thân đứng ra thi thố võ nghệ để giữ vững uy danh của võ đường. Trong số những đối thủ ấy, có cả những kẻ cố tình phá đám, dẫm đạp lên tinh thần võ đạo. Thế nhưng, từ sau trận đấu với một võ sư ở quận Hoàng Kiếm, ông đã rất ăn năn, tự hứa với mình không bao giờ ra tay nếu thật sự thấy không cần thiết. Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng ông đã từng thọ giáo nhiều bậc đại sư tiếng tăm lừng lẫy, đặc biệt lại là đệ tử chân truyền của Băng Tâm sư phụ, Chưởng môn Lý Chấn Hòa, một võ sư cũng học thầy Tàu ở quận Hoàn Kiếm đã nhiều lần gửi lời thách đấu. Vị võ sư ấy lực lưỡng, sức mạnh thì kinh hồn, mỗi cú thôi sơn có sức nặng ngàn cân.


    Để biểu diễn sức mạnh của mình trước võ lâm đồng đạo, vị võ sư ấy từng dùng tay trần đấm tróc vỏ cây. Khiêu chiến mãi không được, vị võ sư đó đành qua một người quen của ông mời ông tới nhà uống rượu. Nghĩ đó là sự ân tình, ông đã vui vẻ nhận lời. Võ sư Băng Sơn kể, ban đầu cuộc rượu đó diễn ra rất vui vẻ, thế nhưng, rượu vào thì lời ra, chủ đề võ thuật lại được chủ nhà nhắc tới. Và, ông ta có những lời miệt thị, xúc xiểm đến việc mấy lần ông từ chối lời thách đấu. Cùng với sự chế nhạo đó, ông ta khoe những thế võ độc của mình. Rượu cũng đã ngà ngà, trước sự khoe khoang vô lối của đối phương, võ sư Băng Sơn bảo, những thế võ đó, ông có thể hóa giải được. Và, ngay trong cuộc rượu đó, ông đã “diễn thuyết” cách thức phá chiêu của mình. Bị bóc mẽ, trước đám đệ tử của mình, gia chủ đã vô uất ức. Ông ta bảo, Băng Sơn chỉ giỏi… võ mồm, còn quyền cước thì chẳng đến đâu. Vẫn bằng cái giọng khiêu khích, hợm hĩnh, ông ta thách người ngồi đối diện với mình ra sân thi đấu. Trước thái độ hỗn hào, quá quắt ấy, hơi men trong người đã làm võ sư Băng Sơn tức giận. Ông đứng phắt dậy, ra sân. Nhưng, với “thói quen” vốn có khi thi đấu của mình, võ sư Băng Sơn kể, ông vẫn nhường cho đối thủ tấn công trước 3 đòn. Và, đúng như đã nói ở trong mâm rượu, hai đòn đầu, khi đối phương tung chiêu độc, ông đã lần lượt hóa giải và nhứ đòn vào những chỗ hiểm của đối phương. Đòn thứ ba cũng vậy, như mãnh thú say mồi, đối phương hùng hục lao tới, nhưng ông cũng nhanh chóng vô hiệu hóa chiêu thức ấy. Thế nhưng, đã quy ước trước, khi hai bên giao đấu, không được cố tình đánh vào những tử huyệt của nhau như yết hầu, mắt, hạ bộ… Thế nhưng, đòn thứ 3 này, đáng ra, khi đã bị triệt tiêu, vị võ sư kia phải dừng lại và coi như cuộc đấu đã phân biệt rõ kẻ thắng người thua. Vậy mà, võ sư Băng Sơn kể, khi ông đã dừng đòn, bởi cay cú bất thình lình gia chủ chơi ngay đòn hiểm, xỉa thẳng tay vào mắt đối phương. Không đề phòng nên trước cú đánh bẩn ấy, ông chỉ kịp ngửa mặt tránh. Tuy thế, ngón tay của đối phương vẫn cầy rách mí mắt trái của ông. Sau cú đánh đó, tiện tay, gia chủ tung ngay một đòn như trời giáng vào vai trái khiến ông loạng choạng. Biết đối phương quyết hạ độc thủ, hết đường lùi, ông quyết định phản đòn. Lấy lại thăng bằng, sau cú thôi sơn vào vai đối phương, chưa kịp thu tay về thì đã bị võ sư Băng Sơn túm lấy giật mạnh về phía trước. Võ sư Băng Sơn kể, khi đối phương lỡ chớn, lao theo cú giật đó thì ngay lập tức, ông lách sang bên rồi giáng luôn một đòn vào mang tai đối phương và tiếp theo là một đòn vào phần gáy. Đồng thời với sê- ri đó là một cú gối thốc ngược lên phản đà đổ xuống của đối thủ. Dính 3 đòn liên tiếp, vị võ sư cao to ấy bật ngược ra phía sau và nằm bất động.


    Võ sư Băng Sơn kể, vài tuần sau, có người đến tìm ông báo tin, vị võ sư ở Hoàn Kiếm đó sau lần tỉ thí với ông đã nằm liệt giường, không thể nào đi lại được nữa. Tin ấy làm ông giật mình, kinh hãi. Có lẽ tại bởi uống rượu, bởi tức giận nên hôm đó ông đã xuống tay quá nặng và những cú đòn đó đã làm kinh mạch của đối phương bị tổn thương, sinh ra bại liệt. Ăn năn, hối hận, ông đã vội vàng đường sữa lên thăm. Gặp ông, vị võ sư đó đã thiểu não bảo: “Lỗi này do tôi, ông không phải bận tâm gì. Suốt mấy tuần qua, nằm suy nghĩ, tôi biết, với tính khí ấy của mình thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ gặp cảnh này!”. Theo võ sư Băng Sơn thì cho đến tận bây giờ, vị võ sư ấy vẫn phải sống cảnh liệt giường. Tâm sự với tôi, day dứt ông bảo, nếu có thể thì qua bài báo này, một lần nữa ông gửi lời xin lỗi tới vị võ sư đó và gia đình. Một lời xin lỗi tự đáy lòng mình.


    Môn phái… nhường đòn

    Sự day dứt ấy của võ sư Băng Sơn đã “ngấm” rất sâu vào phong cách dạy môn đồ. Nội quy môn phái, ông nhấn mạnh tinh thần võ đạo, ấy là không được dùng võ công để khuất phục người khác. Đặc biệt hơn, môn sinh của ông, nếu thi đấu với ai mà không được sự đồng ý của thầy thì coi như tự xóa tên mình ra khỏi môn phái. Đặc biệt, tinh thần ấy đã “chuyển hóa” thành sự trượng nghĩa, nhân ái: Tất cả các môn đồ, nếu cực chẳng đã phải thi đấu thì dứt khoát phải nhường đối phương trước 3 đòn rồi mới được ra tay. “Quy chế” đó đã bất di bất dịch từ lâu lắm rồi! Mấy lần tôi đến, trong căn nhà cấp 4 tuềnh toàng ở ngay cạnh hồ Thanh Nhàn, đều bắt gặp cảnh võ sư Băng Sơn đang loay hoay viết sách. Ông đang tập trung sức lực của mình để cho ra đời bộ sách Võ lâm Việt Nam tùng thư. Theo võ sư Băng Sơn thì đó là bộ sách ghi chép khá đầy đủ những chặng đường phát triển của võ học Việt Nam.
     
  4. trihominh Tửu Lượng Vô Biên

    Cao thủ võ Việt: Công phu đặc dị và khí phách Thăng Long Võ đạo
    Năm 1989, báo giới đã đồng loạt đưa tin với một cái tít giật mình: “Hiện tượng võ thuật mới” hay “Một ngôi sao đã mới xuất hiện trên bầu trời võ thuật”… Nhân vật của các bài báo chứa đựng đầy sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện đang là chưởng môn của môn phái lừng danh: Thăng Long võ đạo.


    Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, ông đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, ảnh thờ… nặng tới gần 80 kg. Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”…


    Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.

    Người luôn thức dạy từ 3 giờ sáng


    Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài, để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc. Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.



    Võ sư Nguyễn Văn Thắng




    Tuy có sự chỉ dẫn của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được ông bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng. Một ngày của ông bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.

    Hoàng Phi Hồng của... Việt Nam


    Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân. Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo bởi trước đây, lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.

    Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn bảo, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia tài võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại. Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng với Thiếu lâm nội gia, ông ngoại là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn, khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu tử thủ trong thành.

    Sau này, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ). Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ, võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã là rạng danh tiên tổ.

    Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt.


    Đả hổ kiểu Võ Tòng


    Có lần chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt. Không chịu khuất phục, cụ vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình. Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư cứng đầu ấy.

    Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này. Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, đồng thời, bởi ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính… người nhà.

    Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn hết đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ. Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn.

    Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế. Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ.

    Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.

    Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn. Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng.

    Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác chiến, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy. Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra.

    Và, cũng chừng ngần ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết. Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt chuồn thẳng.


    Trốn nã bởi đánh võ đài


    Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ, và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng 8, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội.

    Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đánh đả lôi đài. Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp.

    Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy. Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ.

    Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích. Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng.

    Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền cứu giúp nhân dân. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.

    Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật thép. Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ… khổ sai ấy.

    Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi. Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công.

    Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn. Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước.

    Cao thủ võ Việt: Hai lần đại phá... “xã hội đen” Võ sư Nguyễn Văn Thắng bảo, suốt cả đời luyện võ nhưng chỉ có hai lần ông phải dùng công phu thượng thừa “giải quyết” chuyện đời. Đó cũng là những tình huống cực chẳng đã nhưng đến giờ ông vẫn còn thấy day dứt...
    Tập ngáp, tập nghiến răng, tập nhai... đá sỏi


    Mỗi một bài quyền hay những môn công phu đặc dị đều là sự khổ luyện, giờ nghĩ lại, nhiều lúc võ sư Thắng cũng thấy nổi da gà. Thiết xa chưởng là một ví dụ. Cha ông đưa cho ông 12 cây đũa thẳng tắp, được ông tự vót từ thân tre già. Tháng đầu tiên, bằng tay không, một chưởng, ông phải cắm ngập chiếc đũa đó xuống nền đất cứng.




    Võ sư Thắng



    Võ sư Văn Thắng kể, sợ hãi nhất là tháng đầu tiên. Nếu vận khí không tốt thì chiếc đũa không những không cắm xuống đất mà còn xuyên ngược vào tay mình. Tháng thứ hai, vẫn một chưởng nhưng phải cắm liền lúc 2 chiếc đũa. Tháng thứ ba là 3 chiếc, đến tháng 12 thì cả 12 chiếc phải cắm được ngập thân trong lòng đất.

    Thiết xa chưởng của võ sư Thắng bây giờ có lẽ chẳng ai bì kịp. Đã rất nhiều lần ông kê bàn tay của mình trên nền nhà để mọi người thẳng tay cầm vồ gỗ mà nện thoả sức chẳng khác nào đưa tay vào cối để giã, trong khi ông vẫn đang tươi cười nói chuyện.

    Từ trước đến giờ, làng võ vẫn thừa nhận, khẩu lợi công của Thăng Long võ đạo là thiên hạ vô song. Võ sư Thắng bảo, chính bởi luyện môn công phu đặc dị này mà hàm răng trên của ông đã mòn vẹt, thành hình vòng cung trông rất khác người.

    Theo võ sư Thắng, luyện khẩu lợi công đòi hỏi người tập luyện phải có lòng kiên nhẫn, và một quyết tâm bền bỉ, sắt đá. Ban đầu, người học chỉ tập mỗi động tác... ngáp. Một ngày cứ thế ngồi ngáp đến cả vạn lần. Sau tập ngáp là tập nghiến răng. Tư thế nào thì cũng chỉ chú tâm vào việc... day “bộ gặm nhấm” ấy.

    Sau động tác đó, người luyện chuyển sang ngậm sỏi, nhá sỏi. Khi răng, hàm đã cứng, đã có lực thì chuyển sang nâng, nhấc, kéo những vật nặng. Ban đầu thì nhấc những túi cát nặng chừng 10 kg, sau đó tăng dần... thành chiếc cối đá nặng đến nửa tạ.


    Có thể nhai vỡ liền lúc hàng trăm cốc thuỷ tinh


    Trước đây, năm 1989, Liên hoan võ thuật cổ truyền toàn quốc, võ sư Thắng khi đó nặng chỉ 52 kg nhưng đã dùng khẩu lợi công nhấc cả chiếc bàn với đỉnh đồng, nến, hạc, kiếm, ảnh Đạt Ma Sư tổ... nặng đến xấp xỉ 80 kg. Sau mấy chục năm tu luyện, bây giờ, khẩu lợi công của võ sư Thắng đã đạt tới mức thượng thừa. Ông bảo, với hàm răng thép của mình, ông có thể nhai vỡ liền lúc mấy trăm chiếc cốc thuỷ tinh.

    Bởi là môn phái có những công phu dị thường nên rất nhiều lần Thăng Long võ đạo được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội mời đi biểu diễn giao lưu với các đơn vị khác.

    Võ sư Thắng bảo, đến giờ ông vẫn còn ấn tượng với lần lên Hoà Bình biểu diễn khí công cho các công nhân của Nhà máy Thuỷ điện sông Đà xem. Sở dĩ ông nhớ lần trổ tài kinh hồn ấy là bởi, khi về, ông đã bị họ hàng mắng cho một trận te tua. Ai cũng bảo, ông học lắm rửng mỡ, đùa với chính mạng sống của mình.

    Ông kể, lần ấy, bởi được báo hơi muộn, chưa kịp chuẩn bị tiết mục gì lạ nên ông đành chọn môn khí công chịu lực. Vật dụng để biểu diễn là khối bê tông nặng gần 3 tạ, ông mượn tạm từ bể nước của khu tập thể gần nhà mình.

    Tại công trường, khi các công nhân đã quây quần đông đủ, sau khi phô diễn những bài quyền cước đẹp tựa phượng múa, rồng bay thì tiết mục khí công chịu lực mở màn.

    Vị võ sư thân thể gầy nhẳng như que củi vận khí nằm im trên nền gạch. Khối bê tông 3 tạ được cần trục đưa tới, từ từ đặt nên người ông. Mọi người nín thở sợ hãi. Khi khối bê tông đã yên vị thì hai lực sĩ hai bên, mím môi mím lợi dùng búa tạ, nhè khối bê tông mà quai thật lực.

    Quai sã cánh tay mà khối bê tông không chịu vỡ, người võ sĩ nằm dưới vẫn cứ nằm im thin thít, chẳng chút chau mày. Không tin vào mắt mình, hai chuyên gia Liên Xô lực lưỡng nhảy vào, giằng lấy búa, đập tiếp. Lại một thôi một hồi những tiếng búa chan chát vang lên, nhưng khối bê tông vẫn trơ trơ.

    Người nằm dưới thì vẫn nét mặt thản nhiên như đang nằm ngẫm nghĩ điều gì mông lung lắm. Mỏi tay, hai chuyên gia đành buông búa, trầm trồ thán phục. Khi khối bê tông được nhấc ra, mọi người đã ùa vào sờ sờ nắn nắn khắp người vị võ sư tài giỏi. Họ ngạc nhiên bởi không hiểu thân hình vị võ sư được “kết cấu” bằng gì!?


    Xuất chiêu vì... chiếc săm xe đạp


    Trong suốt cả đời luyện võ, có hai lần ông cực chẳng đã phải đại phá... “xã hội đen”.

    Lần thứ nhất xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Chiều ấy, bởi vợ đang mang bầu, sắp sinh, ông đạp xe lên bờ hồ Hoàn Kiếm đón. Qua ngã tư Tràng Tiền, chẳng hiểu thế nào xe của vợ chồng ông bị xịt lốp. Thấy thế, toán sửa xe, toàn những tay thanh niên, mặt mày bặm trợn ở gần đó đã lôi xềnh xệch xe của ông vào đòi sửa.

    Thử săm, một gã bảo, bị thủng 3 lỗ lớn, phải vá thì mới đi được. Vá xong, trả tiền, ông đã giật mình hốt hoảng khi gã đó phát giá bằng đúng nửa tháng lương bác sĩ của mình.

    Biết đã gặp bọn xấu bắt chẹt khách nhưng ông từ tốn xin chúng giảm giá, nhưng dù trình bày thế nào thì chúng cũng chẳng chịu nghe, thậm chí, còn hùng hổ đe dọa. Cực chẳng đã ông đành bảo vợ ở lại, để mình chạy bộ về nhà lấy tiền.

    Rửa tay nhờ chậu nước thử săm xe, ông đã tá hoả khi phát hiện, trong chậu nước đục ngầu có một miếng cao su, được cắm những chiếc đinh nhọn hoắt. Thảo nào, khi nãy, xe của ông bị hết hơi rất chậm mà khi thử đã có đến ba nốt thủng. Cầm miếng cao su cắm đinh ấy, ông quyết định vạch mặt quân gian trá. Bị lật mặt, đám thợ sửa xe sửng cồ, chúng đè ngửa xe ông ra, tháo lấy săm và cắt nát tươm. “Xử lý” song cái săm, thằng cầm búa, đứa cầm kéo đòi tính sổ “vợ chồng thằng nhiều chuyện”. Uất ức, ông quyết định dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Nói thầm với vợ tạm lánh sang bên kia đường, ông ra tay.

    Lúc này, dân đi đường túm lại rất đông, ai cũng lo cho chàng thanh niên mảnh khảnh, nhưng sợ nên chẳng ai dám can ngăn. Thấy vợ đã ra khỏi “vùng nguy hiểm” ông xuất chiêu luôn. Bốn năm tên đồng loạt lao vào nhưng chỉ trong chớp mắt, đứa thì ngã sõng xoài dưới cống, đứa thì lộn lên hè kêu la thảm thiết.

    Thấy chiến hữu đều bị hạ đo ván một cách khó hiểu, có tên từ phía sau, chực vung búa lên đánh lén. Thấy mọi người chỉ, ông quay phắt lại. Gặp ánh mắt sắc lẹm của ông, tên này chân tay bủn rủn. Buông “vũ khí” trên tay, hắn co cẳng chạy.

    Thấy ông ra tay ngoạn mục, dân bên đường đồng loạt vỗ tay thán thưởng. Sau này, những người dân quanh đó nói bọn chúng đều là những phần tử “thương tích đầy mình”.

    3 trận chiến – 1 kẻ thù


    Lần ra tay thứ hai, ông bảo, đó là cuộc chiến dai dẳng, khó chịu. Mở lớp dạy võ tại nhà (phố Hồng Mai) ông luôn bị đám đầu gấu ở quanh khu vực đó quấy nhiễu. Môn đệ của ông liên tục bị chặn đường xin đểu, lúc thì lại bị mất đồ xe máy.

    Một hôm, có môn sinh báo mất cốp xe, bực mình, ông liền đi gặp mấy tên lưu manh ấy để “làm cho ra nhẽ”. Gặp nhau ở quán nước, hỏi thì thằng nào thằng ấy đều chối đây đẩy. Biết có hỏi nữa cũng chẳng được gì, thất vọng, ông đứng dậy ra về. Để răn đe chúng, khi đứng dậy, tiện tay, ông đã vỗ luôn một chưởng vào bức tường rào gần ấy. Cú đòn răn đe ấy đã làm bức tường sụt một mảng lớn. Sau đấy vài hôm, đám lưu manh bị công an bắt.

    Tại cơ quan công an, chúng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, trong đó có cả việc “nhảy đồ” ở lò võ của võ sư Thắng. Bị phạt tù, chúng uất ức, cho rằng chính vị võ sư là người tố giác hành vi phạm tội của mình. Chúng nung nấu ý định trả thù.

    Năm 1987, sau khi thụ án 2 năm, mấy tên trong băng nhóm đó mãn hạn. Về nhà, chúng tuyên bố, việc đầu tiên để “làm lại cuộc đời” là tìm “gã” võ sư đáng ghét để rửa hận. Võ sư Thắng kể, sáng ấy, đang ngồi ăn phở ở đầu phố thì thấy chúng chừng 7, 8 tên, lăm lăm trên tay “hàng lạnh”, hùng hổ kéo nhau vào quán.

    Biết chúng kiếm mình gây sự, ông chuyển lại tư thế ngồi, quay lưng vào tường và vẫn đủng đỉnh ăn như không có chuyện gì. Liếc thấy có tên lao vào, ông đứng phắt dậy, tay trái gạt chiếc chai hắn đang nện tới, tay phải dùng đũa dứ ngay trước mặt. Có lẽ biết nếu ông xuống tay thì đôi mắt của mình coi như hỏng, tên này sợ hãi đẩy đồng bọn lùi ra. Ông cũng thủ thế từ từ bước ra ngoài. Biết không thể đánh trực diện ông, chúng cũng nháy nhau giải tán.

    Đêm ấy, kéo thêm cả chục tên lưu manh nữa, chúng đến thẳng cửa nhà ông chửi bới om xòm. Không thể lảng tránh, một mình ông xách kiếm mở cửa bước ra. Thanh kiếm sáng loáng trên tay, ông cứ thế múa vun vút. Nhìn sắc mặt, nghĩ là ông không dọa nên chẳng đứa nào dám xông vào ẩu đả.

    Công an ập đến, tất thảy được đưa về phường. Tưởng sau lần ấy, chúng thôi giở thói du côn, ỷ đông hiếp yếu, nào ngờ, chúng vẫn tuyên bố, gặp ông ở đâu là đánh chết luôn ở đó. Và, đã vài lần chúng dao búa phục ông ở cổng bệnh viện nhưng được mọi người báo, ông đều lánh mặt an toàn.

    Thấy không đánh thì không yên nên một buổi đi làm về, ông quyết định ra đòn. Hôm ấy, biết chúng tụ tập phục mình ở cổng bệnh viện, ông gửi lại xe và chiếc cặp da trên tay, ông thủng thẳng rảo bộ về nhà. Thế nhưng, vừa ra đến cổng, đám lưu manh trên đã ập tới. Chẳng nói thêm gì nữa, ông xuất đòn luôn. Như con thiêu thân, lần lượt cả 4 tên đều bị ông hạ đo ván. Sau trận ấy thì ông đã bình yên vô sự. Sau này, gặp lại ông, chúng vẫn rối rít gọi ông là “đại ca”, còn cảm ơn vì hôm ấy, ông đã nương tay, ra đòn chưa hết sức!

    Nội công bí kíp của Thăng Long võ đạo bây giờ đã nổi như cồn. Các võ sinh đến theo học ngày một đông. Võ sư Thắng bảo, bây giờ, môn phái ông đã có trên 2.000 môn sinh. Bởi là một bác sĩ, nên ông muốn dùng chính nội công lừng danh của môn phái vào việc cứu người. Khí công trị liệu, ấy là một sở trường của Thăng Long võ đạo, hiện đang được rất nhiều bệnh nhân ở Hà Nội theo học để tự cứu mình.

    Kỷ luật nghiêm ngặt

    Theo võ sư Thắng, khi sáng lập môn phái Thăng Long võ đạo, cụ thân sinh của ông luôn hướng các môn đồ vào kỉ luật nghiêm ngặt, thậm chí có phần hơi khắc nghiệt. Truyền thống ấy vẫn được ông và các môn sinh sau này kế thừa.

    Lý do của sự nghiêm ngặt ấy phần vì tinh thần võ đạo, học võ là để rèn luyện thân thể, không phải dùng để đánh người. Một lý do nữa là công phu của Thăng Long võ đạo có tính bạo liệt, khi ra đòn là ngay tức thì đả thương đối thủ.
     
  5. trihominh Tửu Lượng Vô Biên

    Cao thủ võ Việt: Khuất phục toán cướp bằng ám khí độc môn


    Khi nội công đã tu luyện tới mức thượng thừa, lão võ sư Trần Công bảo, tất cả các vật dụng ở xung quanh, với ông đều có thể là một loại ám khí kinh hồn. Dùng một chiếc lá cứng, một hòn sỏi, một mẩu que... ông vẫn có thể hạ gục đối thủ chỉ trong chớp mắt.

    Theo học chủ nhân của bí kíp Gồng trà kha

    Tuy thiên hạ vô song về độc chiêu ám khí nhưng theo lão võ sư Trần Công, trong suốt cuộc đời bôn tẩu giang hồ, ông chỉ duy nhất sử dụng chúng một lần khi giao chiến. Ông bảo, ám khí đã phóng ra là tàn khốc, là gây sát thương cho đối thủ, nên tuyệt đối không được dùng khi chưa thấy thực sự cần thiết.



    Võ sư Trần Công



    Lần phải vận đến tuyệt chiêu của mình đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi, ông cũng không còn nhớ rõ đích xác vào năm nào nữa. Khi ấy, ông mới từ biệt Mao sư phụ trở về Việt Nam, lên khu Nghĩa Đô, bái danh sư Lại Phú Dương, cũng một sư phụ rất giỏi về võ Tàu làm thầy để tiếp tục rèn thêm kĩ năng chiến đấu cho mình.

    Nói thêm về võ sư Lại Phú Dương, theo lão võ sư Trần Công, thì trước cách mạng, danh tiếng của cụ Lại đã nổi như cồn, đặc biệt với tuyệt chiêu Gồng trà kha. Lão võ sư Trần Công kể, có lần ngay gần chợ Bưởi, với tuyệt chiêu trên, cụ Lại đã để cho mọi người thẳng tay dùng dao chém vào người mà da thịt không hề xây xát, hệt như người ta dùng thanh gỗ mà nện vào bị bông.

    Cụ Lại theo cách mạng. Một lần, tại nhà người bạn của mình, Lại sư phụ bị giặc Pháp vây hãm. Chạy vọt lên tầng thượng của toà nhà cao 3 tầng nhưng quân giặc vẫn rầm rập đuổi theo. Trong cơn khốn quẫn, tài trí và sức mạnh phi thường của cụ đã vô cùng hữu dụng.

    Thấy trên lầu có chiếc cối đá nặng đến cả trăm cân, phía dưới, bên nhà hàng xóm lại có chiếc ao rộng, cụ liền bê luôn chiếc cối ấy mà ném sang ao. Thấy tiếng động mạnh, tưởng cụ đã liều mình nhảy xuống ao, hòng tìm đường thoát, quân Pháp liền xì xồ hô nhau quay xuống, vây kín khắp bờ ao, chờ “con mồi” nổi lên để... bắt. Đánh lạc hướng kẻ thù, Lại sư phụ đã ung dung tìm đường thoát thân.

    Cơ hội hiếm hoi dùng tuyệt kỹ

    Lão võ sư Trần Công kể, ngày ấy, bởi nhớ lời dặn của Mao sư phụ nên ông đã giấu biệt không cho cụ Lại biết khả năng võ công của mình. Theo học cụ Lại được chừng một năm, một đêm, cụ dựng ngược ông dậy nói là đi đánh nhau. Tưởng thầy mình nói chơi, hoá ra đúng là đi đánh nhau thật.

    Đối thủ của hai thầy trò là đảng cướp hung hãn ở khu chùa Thầy, cứ đêm đến chúng kéo nhau về khu ven Hà Nội ngang nhiên cướp bóc. Mỗi lần “ra quân” chúng thường gửi tối hậu thư cho gia chủ, thông báo luôn ngày giờ và những thứ... cần cướp. Nhận được thông báo ấy, nếu khổ chủ không kiếm đủ những thứ trên, hay cố tình tẩu tán tài sản thì chúng sẽ xuống tay vô cùng tàn bạo.

    Đêm đó, địa chỉ mà chúng định mò tới là một gia đình ở ngay trong làng Nghè, nơi võ sư Lại Phú Dương sinh sống. Hoảng hốt, không biết cầu cứu ai, khổ chủ bèn tìm tới cụ Lại, những mong vì lòng trượng nghĩa mà lão võ sư ra tay cứu giúp.

    Bất bình với toán cướp đã lâu, cụ Lại đã gật đầu ưng thuận. Trước lúc lên đường, cụ Lại nói với đệ tử mình: “Binh khí cho con tự chọn, nên nhớ đây là toán cướp giết người không gớm tay!”. Lão võ sư Trần Công kể, nghe sư phụ mình nói thế, ông... mừng lắm, bởi toán cướp càng hung dữ bao nhiêu thì ông càng “có điều kiện” để thử nghiệm võ công của mình, thứ mà ông còn thấy thiếu vì từ trước tới giờ, ngoài mấy trận đánh võ đài toàn thắng ra, ông chưa bao giờ có cơ hội để dụng võ ngoài đời.

    Đường phi tiêu thần sầu quỷ khốc

    Khoác đôi song hổ vĩ côn vào tay, ra cửa, như sực nhớ ra điều gì, ông quay lại cầm thêm nắm đũa sắt, món ám khí mà ông tập luyện đã lâu. Đến nơi, bởi chưa đến giờ như đã hẹn nên toán cướp kia chưa xuất đầu lộ diện. Thấy hai thầy trò, gia chủ mừng quýnh nhưng vẫn có phần e ngại. Có lẽ, họ sợ hai thầy trò không phải là đối thủ của toán cướp tàn bạo kia.

    Vẻ ái ngại, lo lắng ấy càng trầm trọng hơn khi vào đến nhà, cụ Lại sai cậu học trò miệng còn hôi sữa của mình ra cửa đứng canh, còn cụ thì cứ ngồi ung dung uống trà.

    Đứng gác chưa mỏi chân thì phía đầu làng, đèn đuốc đã sáng rực. Quân ăn cướp đến. Thấy ầm ĩ, mấy nhà bên cạnh vội vàng tắt đèn, đóng cửa đánh rầm. Đạp cổng, ập vào sân, chúng hùng hổ quát mắng tựa như đang ở chỗ không người.

    “Bọn kia đi đâu?” - đứng ngoài cửa, dù đã lấy hơi để dương oai, nhưng giọng quát bọn cướp của ông là cái giọng trẻ con, nghe rất đỗi buồn cười. “Á, thằng này láo! Các ông đi ăn cướp chứ còn đi đâu! Khôn hồn thì cút để các ông vào!” - một tên trong đám sừng sộ.






    “Thích vào à? Thích vào thì cứ chui qua đây mà vào!” - chỉ tay xuống dưới háng mình, ông khiêu khích.

    “Chúng mày đâu, lôi thằng nhãi nhép này ra tẩm dầu đốt cho tao!” - không chịu được màn khiêu khích ấy, tên tướng cướp đùng đùng nổi giận, quát nạt đám lâu la.

    Tiếng quát như sư tử hống ấy chưa dứt, một tên tiên phong đã vác binh khí lao lên tưởng sẽ ăn tươi nuốt sống cậu nhóc thư sinh mang gan cóc tía. Thế nhưng, vừa tiến lên được vài bước, hắn bỗng rú lên rồi ôm chân qụy xuống. Một chiếc đũa sắt từ tay cậu thiếu niên phóng ra đã cắm phập vào đầu gối, khiến hắn không thể lê bước.

    Thấy thuộc hạ bị dính đòn quá nhanh, tên tướng cướp đã giật mình lùi lại. Sợ mất mặt với đám đàn em, hắn lại rống lên đồng thời tuốt kiếm chực xông lên. Nhưng, cũng chỉ trong chớp mắt, một chiếc đũa nữa được “thằng nhóc láo toét” phóng ra. Lần này, chiếc tiêu đi một đường kinh hãi hơn, sượt qua mặt, xuyên qua vành tai của tên trùm sỏ. Vừa thoảng nghe tiếng gió rít bên tai, đã thấy máu rơi xuống vai áo lạnh toát, mặt cắt không còn giọt máu, quá kinh hãi, tên tướng cướp thối lui mấy bước rồi chẳng kịp hô đám lâu la, hắn co cẳng chạy.

    Ngồi trong nhà, thấy “kỹ nghệ” lạ lùng ấy của ông, cụ Lại lấy làm ngạc nhiên lắm. Hỏi ai dậy, ông chỉ cười trừ nói rằng cái đó là ông tự mày mò, rồi năng luyện tập mà thành.

    Từ lần bị dính đòn thảm khốc đó, toán cướp bỗng bặt vô âm tín. Người dân ven đô ai cũng mừng như vừa trải qua một kiếp nạn kinh hoàng.

    Một mình vào hang cọp dữ

    Sau đó chừng gần một tháng, ông nhận được một lá thư do một người lạ mặt chuyển đến. Người viết lá thư ấy chính là tên tướng cướp đã dính đòn của ông tháng trước. Hắn mời ông về đại bản doanh của hắn ở gần chùa Thầy để dự một bữa cơm giao hảo. Nhận bức thư ấy, nghĩ không đi không được, nên ông đã viết thư trả lời, hứa sẽ đến như đã hẹn. Theo yêu cầu của tên tướng cướp, ông đi một mình và tuyệt nhiên không mang binh khí gì, đặc biệt là những que đũa sắt, thứ mà bọn chúng đã được một lần... “nếm mùi đau khổ”.

    Lão võ sư Trần Công kể, đợt ấy, không muốn cụ Lại và gia đình lo lắng, ông đã giấu nhẹm chuyện mình được mời vào “hang cọp”. Hôm đó, đúng hẹn, ông cứ một mình chạy bộ vào chùa Thầy cùng chiếc khăn mặt vắt vai.

    Gần đến nơi, qua mương nước, ông nhúng ướt chiếc khăn mặt và nghĩ, nếu trúng gian kế, bị phục kích thì đó cũng là một vũ khí có sức công phá kinh hồn, có thể đánh bại cả chục tên lưu manh trong vòng vài phút.

    Sào huyệt của đảng cướp nằm trong một ngôi nhà kiên cố. Nhác thấy bóng ông, tên đầu lĩnh với vết thương trên tai còn chưa lành, vội vàng ùa ra vồn vã, xun xoe: “Cậu đến rồi à? Mời cậu vào trong! Biết hôm nay thế nào cậu cũng đến nên tôi đã triệu tập tất cả anh em đến đây để đón tiếp đấy!”.

    Vừa ngoắc tay mời, hắn vừa gỡ chiếc khăn trên vai rồi đẩy ông vào gian nhà trong, nơi đã đặt sẵn mâm cỗ với ê hề rượu thịt. Bị đẩy vào góc trong, tì lưng vào tường, ông hơi nghi ngại vì tư thế ngồi đó, nếu bị chúng dùng bàn ép chặt vào trong mà tấn công trực diện thì sẽ vô cùng nguy khốn.

    Tuy thế, ông vẫn vui vẻ ngồi vào nơi mà tên đầu lĩnh đã định sẵn cho mình và hai tay thì luôn đặt trên mặt bàn để nếu có biến, ngay lập tức những chiếc thìa, đũa trong tầm với sẽ giúp ông chống trả.

    Song thật lạ lùng, khi tất cả đều đã yên vị, tên đầu lĩnh bỗng đẩy ghế, quỳ thụp xuống rồi khẩn khoản: “Cám ơn cậu đã đến với chúng tôi! Thưa cậu, từ hôm ở làng Nghè về đến giờ, chúng tôi đã không còn đi cướp nữa! Cảm ơn cậu hôm đó đã nương tay!”. Nói vừa dứt câu, hắn tu ực bát rượu như vừa để cảm ơn, vừa để chuộc lỗi. Cuộc rượu cứ thế kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai lấy đều say nghiêng ngả...

    Kiếp lãng du và một lần chết hụt


    Ông là người thích lãng du, phiêu bạt. Ông bảo, giờ có tuổi, ông mới chịu xếp chân ở yên một chỗ chứ khi trước, đời ông là những chuyến đi. Bởi yêu thích cảnh tự do tự tại, ông đã từng bỏ phố xá, ngược lên biên giới ở đến cả chục năm.

    Đến đâu, ông cũng truyền dậy võ công hay bốc thuốc giúp mọi người nên luôn được đối đãi như thượng khách.

    Ông kể, hồi ở Lào Cai, khi giặc phỉ hoạt động mạnh, với những độc chiêu võ thuật của mình, ông đã được mời dậy võ cho rất nhiều đơn vị tham gia tiễu phỉ.
    Ở Lào Cai chán, ông lại vòng vào Quảng Trị, nơi bom đạn đang thời khốc liệt. Tại đây, ông lại được mời huấn luyện võ thuật cho các đơn vị đặc công. Ông tâm niệm, người luyện võ thì phải nay đây mai đó, có vậy thì mới trau dồi được vốn liếng võ thuật của mình. Nhưng cũng vì thế mà trong một chuyến phiêu bồng, ông đã suýt bỏ mạng.

    Năm 1960, ông và một số võ sư nổi tiếng khác về Ninh Bình để phát động phong trào học võ và dạy võ cho dân quân tự vệ tại Phát Diệm. Để dập tắt phong trào trên, gián điệp đã dùng thủ đoạn thâm độc là hạ sát các võ sư, đặc biệt là ông, người được quần chúng vô cùng yêu mến.

    Chúng bỏ độc vào nồi canh tại nhà ăn tập thể. Vì thế, vừa buông đũa, gần 100 võ sư cùng các môn sinh bỗng thấy ruột mình quặn thắt, sau đó lịm đi. Biết là bị kẻ gian hạ độc, ông bình tĩnh ngồi xuống, vận khí bế huyệt để chất độc không thể ngấm nhanh chóng vào cơ thể mình.

    Sau khi giúp đỡ các nhân viên y tế đưa mọi người ra Bệnh viện huyện chạy chữa, ông bắt đầu thấy mình choáng váng. Chất độc đã bắt đầu ngấm. Khi bác sĩ đưa ông lên giường bệnh, trong cơn đau đớn, vật vã, để giải toả, ông đã bẻ gãy cả... hai chiếc chân giường.

    Nhờ các bác sĩ cứu chữa tận tình, cùng với một thể trạng khoẻ mạnh vốn có, sự nguy kịch cũng dần qua.

    Phát công chữa bệnh cứu người

    Từ ngày thôi làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn cao cấp của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội, Huyền Công Đạo Trần Công đã lui vào sống đời ẩn dật.

    Tuy thế, hầu như ngày nào ông cũng có khách. Đó là những người vì mến mộ ông mà cố gắng tìm đến để thỉnh giáo võ công. Đó là những bệnh nhân không may gặp chứng nan y, từ khắp mọi nơi, nghe dân tình mách bảo mà lặn lội tìm về, những mong nhờ thành tâm của mình mà được ông cứu chữa.

    Lão võ sư Trần Công bảo, khách võ thì ông có thể chẳng mặn mà nhưng bệnh nhân thì ông vô cùng chu đáo. Cũng giống như Mao sư phụ, ông chữa bệnh là để cứu người chứ không bao giờ tính chuyện nhận thù lao.

    Với tuyệt chiêu dùng công lực phát công chữa bệnh, ông đã cứu sống được nhiều người, trong số ấy, có cả những bệnh nhân đã bị các bệnh viện lớn trả về bởi hết đường chữa chạy.
     
  6. Yang Yoseob Thành Viên Cấp 1

    Em kết cái avatar của a qá =))
     
  7. BimBim2412 Thành Viên Cấp 6

    Nghe cứ như phim chưởng Cao thủ võ Việt- Tiếu Ngạo Giang Hồ
     
  8. WILDHORSE TRAN Thành Viên Bạch Kim

    Bài sưu tầm quá hay. Cám ơn chủ topic nhiều!
     
  9. lexuananh Thành Viên Cấp 3

    dài thế, thấy hay mà lười đọc quá
     
  10. tiếu_ngạo2008 Âm Binh Cô Hồn

    minh thich khúc tiêu cầm
     
  11. RuMiNa Thành Viên Cấp 4

    trước giờ cứ tưởng vận khí công chữa bệnh chỉ có trong phim >.<
     

Chia sẻ trang này