Tìm kiếm bài viết theo id

Luật nhân quả trong đời

Thảo luận trong 'Chuyện trò' bắt đầu bởi jimmy_vnu, 3/9/08.

ID Topic : 429225
Ngày đăng:
3/9/08 lúc 21:38
  1. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Tham gia ngày:
    20/8/08
    Tuổi tham gia:
    15
    Bài viết:
    2,120
    Vô tình mà gây nên tội

    ( Chúng tôi nghe câu chuyện này từ thầy Thông Pháp kể về một vùng quê ở Mỹ Luông, cách đây hơn ba mươi năm)
    Tiếng la thất thanh của ông Ba làm người trong làng choàng tỉnh. Tiếng gà gáy canh cuối, mặt trời còn yên ngủ ở cuối trời.
    – Có ai mất đứa con nhỏ nào không, tôi thấy một ông già khăn đỏ bắt một đứa nhỏ đi về hướng Long Xuyên?
    Dân làng lao xao bàn bạc. Chợt có hai vợ chồng chạy đến nhận rằng có đứa con trai vắng nhà từ chiều qua chưa thấy về. Theo hướng ông Ba chỉ, họ nhờ nhiều người đi tìm phụ.
    Nhưng chuyện đó chìm dần vào quên lãng và hai vợ chồng kia vĩnh viễn mất đứa con trai. Riêng ông Ba từ đó đổi tính hiền lành, ít nói, về nhà lập một bàn thờ. Mỗi khi ăn cơm ông xới thêm một chén cơm để lên bàn thờ và khấn vái lâm râm. Bà Ba có hỏi liền bị ông gạt phắt đi.
    Ông có trồng một đám mía. Đến mùa mía chín, lũ trẻ và heo của hàng xóm hay đến phá phách. Ông rất bực mình vì phải canh giữ. Một hôm ông đuổi con heo đang phá mía và theo nó về đến nhà chủ của nó. Khi được ông ôn tồn nói sự phá phách của con heo, cô chủ ong ỏng chối ngang và thách ông có đập chết con heo tại chỗ cô mới chịu nhận heo mình có phá mía. Ông đuối lý và căm giận vô cùng, quyết tâm bắt con heo làm tang chứng để mắng con mụ đó một trận. Ông mài cây xà búp( giống như cây giáo mũi nhọn) cầm theo để rình rập. Ông bò lết qua lại trong đám mía đến nổi hai khủy tay thành chai cứng. Và rồi cái gì ông mong đợi đã tới. Khi trời vừa sụp tối, ông thấy bóng "con heo" đang sột soạt nơi hàng mía bên kia. Ông rón rén bò lại gần và phóng mạnh cây xà búp. "Con heo" ngã lăn ra kêu không thành tiếng, chỉ phát ra tiếng khèn khẹt. Ông mừng rỡ chạy vội lại và thất kinh hồn vía. Thằng nhỏ giãy giụa với cây xà búp ghim ngay bụng. Ông cuống cuồng không biết tính sao. Rút mũi xà búp ra là đổ ruột liền, mà đem ra là đi tù chớ chẳng chơi. Ông do dự mãi mà không biết cách nào giải quyết. Đến khi gà gáy canh tư, ông đào lỗ chôn thằng bé trong đám mía, phi tang mọi dấu vết và về làng la lên đổ thừa cho ông già khăn đỏ.
    Từ đó ông hối hận vô cùng, mỗi bữa ăn đều cúng cơm cho hương hồn thắng bé và nói lên sự vô tình và ân hận của mình. Khi phải đi đâu vắng ông dặn bà Ba cúng chén cơm không để gián đoạn bữa nào. Thời gian thắm thoát qua ba năm, một đêm ông nằm mộng, thấy đứa bé đến gọi, ông giật mình mở mắt, không thấy điều gì, lại nhắm mắt ngủ tiếp như vậy đến ba lần. Đứa bé lại đến gọi và nói:
    "Ba năm qua tôi biết rõ lòng ông, không phải ông cố ý giết tôi, nên tôi không oán giận gì với ông cả. Tôi sắp đầu thai làm con của gia đình gần đây, cách nhà ông sáu căn về phía dưới. Ngày mai ông có nghe gia đình đó sinh con, thì tức là tôi, dưới bụng còn dấu dao cũ. Tôi báo cho ông biết để ông đừng cúng cơm cho tôi nữa".
    Ông Ba giật mình tỉnh giấc và thức mãi không ngủ được. Sáng ngày ông nghe ngóng và biết có gia đình cách nhà ông sáu căn vừa sinh đứa con trai. Đến chiều, ông đem quà đến thăm và đến tận buồng vạch bụng xem quả nhiên có dấu thẹo mờ mờ. Từ đó ông cứ đến viếng thăm đứa bé đó luôn. Mỗi khi đi chợ về ngang thì không kẹo cũng bánh đem cho thằng bé. Mối thâm tình của ông và thằng bé đầm ấm mãi. Cha mẹ thằng bé mặc nhiên xem ông như một người thân thiết và đỡ đầu cho thằng bé. Niềm hối hận bao nhiêu năm được đền trả trong từng hộp sữa, từng chiếc bánh, từng cái nâng niu của ông dành cho thằng bé.
    Bây giờ thì thằng bé đã được tám tuổi rồi. Một hôm ông đem quà đến thăm nhằm lúc cha mẹ nó đi vắng. Đứa bé ôm ông thưa:"Ông thương con quá mà con không biết làm sao trả hiếu cho ông".
    Ông Ba âu yếm nói:
    "Con muốn trả hiếu cho ông hả? Kìa, có trái đu đủ chín ngoài cây kìa, con hái đãi ông đi!"
    Đứa bé mừng rỡ nhìn trái đu đủ cao hơn tầm tay với và băn khoăn không biết hái cách nào. Ông bảo nó lấy cây dao mác ra mà chặt, nó vâng lời lấy cây dao mác ra, mà vẫn với không tới. Ông Ba đến gốc cây cõng nó lên muốn nó tự tay hái đãi ông. Thằng bé thích thú cười dang tay quơ cây mát đứt cuống trái đu đủ, nhưng khi trái đu đủ rớt tới đất thì lưỡi mác mất đà rơi xuống ghim sâu vào bụng ông Ba. Ông ngã lăn ra kêu không thành tiếng, chỉ phát thành tiếng khèn khẹt mà thôi. Dĩ nhiên ông được đưa về nhà, chịu đựng tình trạng đó hơn một ngày đêm và từ chối mọi sự chữa trị. Qua một ngày ông bỗng tỉnh táo lạ thường và nói trở lại được. Ông cho người nhà đi tìm gọi hai vợ chồng mất đứa con hơn mười năm trước, gọi cha mẹ thằng bé đến, và trước mặt đông đủ con cháu, mọi người ông kể lại câu chuyện đã bị giữ kín hơn mười năm qua. Ông dặn gia đình không được làm khó thằng bé và cha mẹ nó, vì đây là nghiệp quả mà ông phải trả. Ông bảo con cháu lấy kinh Nhân Quả đọc cho ông nghe. Sau đó ông trút hơi thở cuối cùng.
    NHẬN XÉT
    :
    Luận Nhân Quả rất là công bình và khách quan. Tuy ông lão không cố ý giết người, không ác tâm giết người, nhưng dưới tay ông một đứa bé phải chết dần trong đau đớn. Quả báo đã trở lại với ông trong một trạng huống tương tự. Lưỡi dao nơi tay thằng bé đã cắm vào bụng ông khi mà ông và thằng bé đang thương quý nhau rất mực. Lòng hối hận và những chén cơm cúng vái đã xóa được nỗi hận thù với nhau, hơn nữa, còn kết chặt tình thân ái giữa ông và thằng bé trong vòng luân hồi vô tận này. Phước của sự sám hối đã khiến ông tỉnh táo trở lại trong những giờ phút cuối cùng để nói lên sự thật.
    Sở dĩ có xảy ra tình trạng không cố ý giết người vì trước đó ông đã nung nấu cố tâm giết con heo. Tác ý bất thiện này đã gây ra nỗi bất an cho ông suốt mười mấy năm và chấm dứt bằng cái chết bi thảm. Nói là không cố ý, nhưng thật ra đã có cái cố ý giết con heo kia rồi. Tác ý bất thiện nào được nuôi nấng mãi cũng có ngày kết thành quả báo đau khổ. Thế nên, bước đầu trong sự tu hành, sư phụ chúng tôi thường dạy hàng cư sĩ tại gia kiểm soát xem tư tưởng của mình là thiện hay ác, nếu ác thì phải đình chỉ lập tức và thiện thì được tiếp tục. Trước khi làm chủ tâm trong định, chúng ta tập làm chủ tâm trong thiện niệm. Thiện niệm nào được nuôi nấng mãi mãi cũng có ngày trổ quả an vui.
    Trong đời sống chúng ta dễ gây nghiệp vô ý rất nhiều. Chúng ta xịt thuốc trị sâu rầy cho lúa, nhưng những ốc, tép, cá con, cả những vi sinh vật trong ruộng cũng đều bị tác hại. Người thợ làm bình accu để hơi acid bay sang các nhà lân cận làm cho nhiều người nhuốm bệnh. Đoàn văn nghệ về làng trình diễn xôn xao làm ảnh hưởng công phu tu tập của các sư trong chùa. Sự phá rừng lấy củi làm nước lũ kéo mạnh làm ngập lụt xóm làng. Phim ảnh tàn bạo gây thêm thú tính cho người xem. Tài vật quý giá để lộ liễu khiến lòng tham lam của người khác bị kích thích.v.v... Vô số những hậu quả tai hại của việc làm chúng ta mà chúng ta không lường trước nên không phải cố tâm. Những tác hại không cố ý đó đều có quả báo của nó. Gọi là không có tâm vì chúng ta si mê không đủ trí tuệ để thấy trước ảnh hưởng việc làm của mình. Nếu đủ trí tuệ, chúng ta có thể lường trước những ảnh hưởng phụ phía sau công việc của mình. Khi đã gây ra tác hại, quả báo chắc chắn phải đến.
    Một người tiều phu quê mùa thản nhiên đốn những gốc cây lấy củi để kiếm sống, nhưng những nhà sinh thái học hết sức lo lắng về việc này. Một nhà máy hóa chất thải ra cống những cặn bã độc hại, những môi trường sống của sinh vật bị ô nhiễm và những trận mưa acid xói mòn nhà cửa, phá hoại hoa màu của nông dân. Cũng rất cần kiến thức khoa học để biết rõ những tác hại phía sau việc làm của mình.
    Trên đây là những bất thiện nghiệp không cố ý. Quả báo của nó là đời sau người này rất Đạo Đức nhưng lại nghèo khổ khó khăn bệnh hoạn. Không ác tâm tạo nghiệp nên họ vẫn còn bản chất hiền lành, nhưng nghiệp vô tình đã gây vẫn làm họ vô cùng khốn đốn. Ngược lại có những thiện nghiệp không cố ý cũng đem đến quả báo công bằng. Vì tuân lệnh cấp trên người nhân viên thừa hành phải ngày đêm xây dựng cây cầu to nối liền hai bên bờ sông rộng. Người thực hiện điều này có khi là một kẻ bợm nhậu, chưởi thề bum thiên, thô bạo lỗ mãng, nhưng khi xây dựng xong chiếc cầu vĩ đại này, y đủ phước để làm người giàu có trong nhiều đời sau nữa. Bản chất dữ tợn thô lỗ nhậu nhẹt vẫn còn đeo đuổi y đến đời sau, nhưng y vẫn là một kẻ nhà cao cửa rộng, xe cộ xênh xang.
    Đó là tại sao chúng ta thường gặp những kẻ giàu có mà kém Đạo Đức hoặc người nghèo khó lại hiền lành. Còn những Phật tử biết rõ Nhân Quả và cố gắng tu tâm tác thiện mới là những người vừa giàu sang vừa Đạo Đức ở đời sau.
     
  2. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Tại sao có thiên tai động đất?

    Một cơn động đất kinh khủng đã phá hoại một vùng đất rộng lớn ở Trung Hoa. Nhiều người chết, nhiều người bị thương và nhiều nhà cửa bị hư hại. Trước một tai họa chung đó, các nhà Nghiệp Báo học gọi là cộng nghiệp (nghiệp chung).

    Trong một khu phố yên tĩnh. Ông Ba bị dây điện đường đứt rơi trúng khi đi ngang. Ông chết tại chỗ, người ta gọi trường hợp này là biệt nghiệp (nghiệp riêng).

    Đối với nghiệp riêng thì vấn đề trở nên đơn giản, nghiệp ai đã gieo thì nấy chịu. Nhưng trước một tai họa chung thì sự việc phức tạp hơn nhiều.

    Không hẳn là những người cùng chịu chung một tai họa bởi vì trong quá khứ đã xúm nhau làm chung một điều ác. Họ chỉ là những người có quả báo giống nhau, rồi do sự thúc đẩy của nghiệp đã tìm về ở chung một môi trường với nhau.


    Bốn mươi người có chung quả báo sẽ bị tai nạn xe cộ, đã mua vé đi cùng một chuyến xe đò. Khi tài xế lái đến quảng đường vắng thì thấy bóng một cô gái áo trắng tóc xỏa chời vờn trước mũi xe. Anh vội vã bẻ volant và đạp thắng. Xe mất thăng bằng lật nhào vào cánh ruộng bên đường. Người nghiệp nặng thì chết, người khác thì bị gãy tay chân, chấn thương. Một vài người nghiệp nhẹ thì qua một cơn kinh hoàng và chỉ bị xây xát chút ít.

    Chính nghiệp của 40 người đã tạo ra một ảo ảnh trước mặt người tài xế. Nhiều người giải thích rằng có một hồn ma tại khúc đường đó muốn làm cho xe lật đổ tìm thêm người chết làm bạn.
    Chưa chắc là 40 người này đã tạo chung một nghiệp ác từ quá khứ. Có thể họ chỉ tạo nghiệp riêng rẽ, nhưng đều chiêu thành một quả báo giống nhau nên nghiệp duyên đã thúc đẩy họ đi cùng một chuyến xe định mệnh.

    Sông Mêkong dâng nước làm ngập lụt nhiều vùng ở hạ lưu. Một trong những nguyên nhân được tìm thấy là do khói các giếng dầu ở Koweit bị Irak đốt cháy làm xáo trộn thời tiết Địa cầu, cộng với nạn phá rừng từ thượng nguồn sông từ Hy Mã Lạp Sơn qua Vân Nam đến Lào, Thái Lan... khiến cho thiếu rừng giữ nước mưa lại. Như vậy phải chăng người Irak gây nhân và người Việt Nam chịu quả báo?
    Không phải vậy, đó chỉ là Nhân Quả của khoa học vật lý trong không gian vật lý. Nó chỉ là bề nổi của luật Nghiệp Báo ẩn dấu đằng sau.
    Hệ quả của việc phá rừng đầu nguồn là gây lũ lụt ở vùng hạ lưu. Những ai cũng có quả báo phải chịu lũ lụt sẽ sinh ra lớn lên, hoặc từ đâu chuyển về sinh sống, nơi những vùng đó để cùng nhau chịu chung tai họa. Còn những kẻ phá rừng đầu nguồn sẽ được “tính sổ” ở tương lai.


    Ở tính chất khác, có những người cùng tạo chung một nghiệp, cũng dễ dàng cùng chịu quả báo đồng thời.


    Ví dụ một ông quan ra lệnh giết một người tốt chỉ vì người này bênh vực dân nghèo chống lại những kẻ giàu có ức hiếp họ. Khi xử thiêu ở giàn hỏa, những kẻ giàu có reo hò biểu lộ sự đồng tình. Đến đời vị lai, ông quan, đao phủ và đám người hùa theo vô tình hội họp ở nhà ăn lớn. Thế rồi nhà ăn phát lửa, nhóm thực khách kinh hãi hỗn loạn, ông quan và tên đao phủ bị chết thiêu, còn những kẻ khác thì bị phỏng nặng.

    Nghiệp tùy hỉ với kẻ khác cũng làm chúng ta bị vạ lây. Mỗi khi trông thấy người mổ heo bò, đánh lộn hoặc cướp giật, nếu không ngăn cản được thì thôi chứ chúng ta đừng khởi tâm đồng tình với họ. Nếu có tâm niệm đồng tình ắt có ngày chúng ta “ăn theo” một chút quả báo của họ. Nhiều kẻ ăn không ngồi rồi hay xúm xít xem cảnh một người làm thịt chó với vài ý kiến đóng góp nhiệt tình, hy vọng sẽ được chia ít phần. Họ đâu biết rằng nghiệp nhân đó làm họ đổ thịt chảy máu ở mai sau.
    Cũng có trường hợp nhiều người chung tạo nghiệp, nhưng vì thiếu duyên để gặp gỡ nên họ chia ra nhận quả báo riêng rẽ mỗi nơi khác nhau mặc dù quả báo khá giống nhau.

    Ví dụ, ba người cùng phát tâm đắp một con đường cho dân làng đi lại dễ dàng. Nhưng do tư tưởng và một số nghiệp khác lại không giống nhau nên đời sau họ sinh qua ba đất nước khác nhau. Mỗi người đều học ngành xây dựng cầu đường và thành công giàu có tốt đẹp gần như nhau.

    Trong truyện tích về trưởng lão Losaka Tissa kể rằng vì đời quá khứ, trưởng lão đã đố kỵ với một vị ALaHán, nên nhiều đời về sau trưởng lão đọa làm chó đói, đến khi trở lại làm người cũng bị đói kém thê thảm. Trong kiếp cuối cùng, khi ngài đầu thai tại làng đánh cá, cả làng bỗng nhiên bị một tai họa như mất mùa cá, lửa cháy, hồ nước cạn, vua xử phạt. Họ tìm ra sự xui xẻo xuất hiện từ gia đình của đứa bé và đuổi người mẹ có mang ra đi. Bà mẹ đi xin ăn để nuôi con. Khi đứa bé vừa có thể chập chững xin ăn được, người mẹ bỏ trốn! Sau này chú bé được ngài Xá Lợi Phất tiếp độ và được gọi là Losaka Tissa. Mặc dù chứng được đạo quả ALahán, nhưng trưởng lão vẫn chịu sự đói thiếu suốt đời (Luận về Nhân Quả).
    Ở trường hợp này, không phải là họ cùng tạo nghiệp chung với trưởng lão từ quá khứ. Chỉ là do nghiệp của trưởng lão không được sống một cách êm ấm, phải lang thang đói thiếu vất vả nên nó thúc đẩy toàn bộ dân làng hiện ra quả báo xấu của họ, để cho họ buộc lòng phải đuổi người mẹ có mang ngài ra đi.

    Không hẳn là nghiệp ác đời này sẽ sinh ra quả báo ở đời sau. Nó có thể kéo dài vài trăm năm về sau. Có những nhà tiên tri lừng danh như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Nostradamus (1503-1566 Pháp), Jeane Dixon (Mỹ) có thể thấy trước việc tương lai từ rất xa. Nostradamus có thể tiên tri những việc sau đời ông 7000 năm! Cho đến hôm nay khi nghiệm lại các lời tiên tri bóng gió của ông, người ta thấy đúng nhiều chi tiết đến kỳ lạ. Cuộc Cách Mạng Pháp với Công Xã Paris được diễn tả rành mạch; nhân vật De Gaulle được nói đến khá chi tiết... Những sự việc chung này được tiên đoán từ rất lâu chứng tỏ rằng luật Nghiệp Báo từ trong Bản Thể đã sắp xếp quả báo của mọi người khá rõ ràng từ nhiều nghìn năm về trước. Nostradamus có một sự nhạy cảm tâm linh cao độ, đã “đọc” được tiến trình này dù cho nó chưa hề có dấu hiệu nào nơi không gian vật lý.


    Những quả báo chung của mọi người như thiên tai, chiến tranh, hỏa hoạn... dường như đã được sắp xếp sẵn từ rất lâu. Đó là sự tập hợp nghiệp của mọi người từ khắp nơi trên thế giới. Ví dụ có ba nghìn người tạo nghiệp ác ở rải rác mọi nơi. Quả báo của họ khá giống nhau là phải chịu một trận phun núi lửa dữ dội. Nhưng nhân duyên để họ quây quần về sống gần nhau dưới chân núi lửa cần phải một thời gian là năm trăm năm sau nữa. Và một vài nhà tiên tri siêu việt đã nhìn thấy sự kiện sẽ xảy ra này.

    Có một tai họa chung mà toàn thể nhân loại phải gánh chịu đó là ngày tận thế! Một số tôn giáo đã nói nhiều về ngày tận thế để khuyến khích tín đồ cố gắng tu thiện ngay từ bây giờ. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng vào kỷ Gjura đã từng xảy ra một vụ va chạm giữa Địa cầu với một thiên thể lớn khiến cho các loài khủng long dường như bị tuyệt chủng đồng loạt. Vào năm 1988, một vẫn thạch lớn cắt ngang quỹ đạo Địa cầu tại một nơi mà Địa cầu mới đi qua. Các nhà thiên văn còn e ngại một sự gặp gỡ tương tự sẽ xảy ra vào lúc khác . Nếu có một sự va chạm lớn như vậy, chắc chắn đó là ngày tận thế của nhân loại. Tuy nhiên, có một ngày tận thế chắc chắn nhất mà chúng ta không thể tránh khỏi là sau vài tỷ năm nữa, mặt trời đã nguội, không còn sưởi ấm cho trái đất nữa, lúc đó một cái lạnh khủng khiếp tiêu diệt toàn bộ sự sống nơi hành tinh này. Từ nay tới ngày đó còn quá xa để cho chúng ta phải lo sợ, chỉ sợ những tai họa bất ngờ xảy ra ngoài dự kiến của con người, và xảy ra trong thời gian rất gần khi mà con người chưa đủ khả năng bồng bế, kéo sang một hành tinh khác để lánh nạn.
    Tận thế, một quả báo chung của toàn thể sinh vật (nhất là động vật) là do nghiệp nhân gì của mọi người?

    Cái chết tập thể này là do tất cả mọi người cư ngụ trên quả đất, vì sự sống của mình đã thường xuyên tạo các nghiệp PHÁ HOẠI SỰ SỐNG LẪN NHAU.


    Những loài vật có khả năng hơn đã ăn thịt các loài vật kém khả năng hơn. Con cọp mạnh bắt đi con dê yếu đuối, vồ đi con người mảnh mai. Con cá lớn nuốt con cá bé. Con người thì đủ thông minh để có thể giết tất cả các loài khác và đồng loại của mình.

    Việc giết hại động vật có tâm thức thường gây nên các quả báo rõ ràng trong thời gian gần như vài năm, vài kiếp, vài trăm năm. Kẻ thủ phạm phải chịu đền trả một mình (nghiệp riêng) như bị thương tật, bị chết chóc; hoặc phải chịu tai họa chung với nhiều người khác (nghiệp chung) như bị các thiên tai, bệnh dịch, tai nạn giao thông.
    Có một nghiệp “hủy hoại sự sống” rất âm thầm khó thấy nhưng quả báo của nó đủ sức đưa đến tận thế, đó là sự chặt phá cây cối. Thực vật có sự sống và có tâm linh, một tâm linh đơn giản. Tuy thực vật không biết đau đớn nhưng ai hủy diệt sự sống của thực vật (nhất là phá rừng) cũng đã tự chuốc lấy quả báo bị hủy diệt sự sống của chính mình về sau. Toàn thể nhân loại mỗi ngày đều tiêu diệt sự sống màu xanh trên hành tinh để làm món ăn (rau), để làm vật dụng (gỗ), để làm nhiên liệu (củi). Cái nhân tiêu diệt sự sống màu xanh đó tích lũy qua nhiều kiếp, nhiều triệu năm, nhiều tỷ năm, ắt phải đưa đến sự tận thế ghê gớm.
    Đối với không gian vật lý, việc phá rừng có nguy hại trầm trọng đến với sinh thái Địa cầu. Những khu rừng già rậm rạp có chức năng lọc không khí như một bộ phổi của hành tinh, rừng hấp thu nhiệt độ của ánh sáng làm dịu bớt cái nóng của mặt trời và giữ độ ẩm cho không khí; rễ cây rừng giữ nước mưa để không làm thành lũ lụt, giữ độ ẩm cho đất khi không còn mưa khiến cho mạch nước được duy trì trong suốt mùa khô. Phá rừng là một hành vi tự hủy diệt chính mình, nhưng không đủ để gọi là gây nên tận thế. Cái quả báo tận thế được nói đến ở đây chính là dựa vào không gian tâm linh. Sự tiêu diệt sự sống của cây cối, tiêu diệt tâm linh đơn giản của cây cối tạo thành một quả báo trầm trọng hơn chúng ta nghĩ theo không gian vật lý. Nó âm thầm tích lũy dần dần để đưa đến một tai họa khủng khiếp cho toàn thể loài vật đến nỗi đáng được gọi là tận thế.


    Chúng ta sẽ đặt vấn đề nếu không sử dụng thực vật, dù trực tiếp hay gián tiếp thì con người làm sao giải quyết nhu cầu đời sống, và chính vì đã chung nhau tích lũy nghiệp hủy diệt sự sống màu xanh nên ngày tận thế của nhân loại là điều không tránh khỏi. Nhưng dù sao, đối với dòng luân hồi vô tận sinh tử tử sinh tiếp nối mãi thì cái chết lúc tận thế có gì quá quan trọng để chúng ta phải sợ hãi đâu ? Miễn là chúng ta có một sự nghiệp phước đức cực kỳ lớn đã tích lũy nhiều đời đủ đưa chúng ta đi sang một kiếp sống mới, ở một hành tinh khác vui sướng hơn Trái đất gấp bội lần.

    Sau ngày tận thế, kẻ nhiều tội sẽ tái sinh qua một hành tinh đầy khổ sở, biến động, hoang dã. Kẻ có phước sẽ tái sinh qua một hành tinh văn minh, tiện nghi, hạnh phúc tràn trề. Dòng luân hồi vẫn tiếp tục lăn mãi trừ phi kẻ nào đã chứng đạt Bản Thể Tuyệt Đối để giải thoát hoàn toàn mới không bị luân hồi chi phối.

    Nếu nhân loại cứ bạo tàn hủy diệt sự sống lẫn nhau và sự sống màu xanh của thực vật thì ngày tận thế sẽ đến gần hơn. Nếu nhân loại biết bồi đắp giữ gìn sự sống lẫn nhau, giữ gìn sự sống màu xanh cây cỏ thì ngày tận thế sẽ dang ra xa mãi, nhưng dù sao ngày tận thế cũng phải đến khi mặt trời bắt đầu nguội. Luật vô thường sinh-trụ-hoại-không- là điều không tránh khỏi.


    Thế nên, có mặt trên cuộc đời này, chúng ta hãy trân trọng sự sống của muôn loài, dù đó là con người, thú vật hay cây cỏ lá hoa. Hãy thương yêu và giữ gìn tất cả để góp phần đẩy lùi ngày tận thế ra xa hơn.


     
  3. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Người hay thất hứa thì cũng thường thất bại



    (Trích trong Tăng chi bộ kinh 11 A trang 108)
    Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Phật về nguyên nhân một người buôn bán thành công hay thất bại.


    Phật bảo:


    ..."Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến vị Sa Môn hay Bà La Môn và hứa hẹn như sau: “Thưa Tôn Giả, hãy nói lên điều Tôn Giả cần giúp đỡ", nhưng người ấy không cho như đã hứa. Nếu từ chỗ đấy mạng chung đi đến chỗ này, dầu cho người ấy có buôn bán gì, buôn bán ấy đi đến chỗ thất bại".


    ..."Và người ấy cho như đã quyết định hứa cho,... nếu buôn bán gì, buôn bán ấy đi đến thành tựu như ý muốn".


    "Và người ấy cho nhiều hơn như đã quyết định muốn cho... nếu buôn bán gì, buôn bán ấy được thành tựu ngoài ý muốn".


    NHẬN XÉT:
    Cũng như đa số những bài kinh khác, Phật khuyến khích sự cúng dường cho các bậc đức hạnh tu hành. Chúng ta có thể hiểu rộng hơn, phổ cập đến tất cả hạng chúng sinh. Như vậy, việc thực hiện lời hứa dâng tặng giúp đỡ đã đem lại quả báo kinh doanh thành công.


    Khi một người được hứa giúp đỡ, họ sẽ khắc khoải trông chờ, dù lộ liễu hay kín đáo, về sự thực hiện lời hứa của người kia. Nếu người hứa không thực hiện, thì người được hứa sẽ phải thất vọng dù nhiều hay ít. Tạo niềm hy vọng bằng lời hứa rồi gây nổi thất vọng bằng thất hứa, việc này đã sản sinh một quả báo tuyệt vọng ở mai sau. Chúng ta phải tập cho mình một thói quen nghiêm khắc là giữ đúng lời hứa. Trước khi hứa hẹn hãy xét kỹ mình có đủ khả năng thực hiện lời hứa hay không. Đừng hứa lấy lòng trong lúc hứng chí bồng bột để rồi phải thất hứa làm thất vọng cho người.


    Ngược lại, sự thực hiện đúng như đã hứa hoặc vượt hơn lời hứa khiến cho người vui mừng sung sướng đã đem lại quả báo thành công ở mai sau. Thật là quý hóa khi hứa một mà sự thực hiện gấp hai ba.


    Giữ lời hứa là điều quan trọng. Giữ giới đã lãnh thọ cũng là một hình thức giữ lời hứa với Tam Bảo, đối với chúng sinh. Khi chúng ta long trọng tuyên bố lãnh thọ giới pháp, lúc đó chúng ta trở thành niềm tin cho mọi người, chúng ta ban cho họ sự tịnh tín, chỗ nương tựa, niềm an ủi nơi sự thanh tịnh của chúng ta. Nếu chúng ta thất hứa, điều BAN CHO đó đã đổ vỡ, mọi người mất tịnh tín, mất chỗ nương tựa, mất niềm an ủi và thất vọng, chúng ta phải chịu hậu quả nặng nề về sự thất hứa này. Ngược lại, chúng ta giữ giới đã lãnh thọ một cách thuần tịnh, mọi người được tịnh tín, nuơng tựa an ủi lâu dài, công đức của chúng ta không nhỏ.


    Công đức nào cũng đều được thực hiện bằng dũng lực. Không có dũng lực, không có tác thành công đức. Người dám san sẻ tài sản, người kiên trì giữ gìn lời hứa, đều là những người có nhiều dũng lực.

     
  4. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Hỏi: Người thông minh trí tuệ là do nhân gì?



    Đáp: Có nhiều loại thông minh. Loại thứ nhất là do học nhiều rồi nói lại những điều mình đã học mà không có sức sáng tạo. Loại thứ hai có sức nhận thức sắc bén hơn trong một số lãnh vực giới hạn như chỉ trong ngành y khoa, điện tử... là do đã từng dùng nghề nghiệp phục vụ xã hội đắc lực. Hoặc có người do công đức ấn tống kinh điển, cúng đèn dầu cho chúng tăng, cất trường học cho trẻ em... cũng được quả báo sáng suốt thông minh. Nhưng có một loại thông minh phi thường, trực giác nhạy bén, sức sáng tạo vô hạn là do công năng tập định ở những đời trước. Có khi đời này họ chưa tìm lại trình độ định lực của đời trước, nhưng họ đã có trí tuệ phi thường. Khi nhìn đến bất cứ lãnh vực nào họ đều có sự nhận thức sắc bén và độc đáo. Các vị Alahan và các thiền sư khi chưa chứng ngộ đều đã biểu lộ sức trí tuệ đặc biệt này. Thế nên, một quốc gia muốn có nhiều nhân tài cần phải áp dụng tu tập Thiền Định cho sinh viên và học sinh. Nhật Bản đang khai thác triệt để về điểm này nên họ đã vượt xa các nước về nghệ thuật và kỹ thuật.


    Hỏi: Tại sao có những người cùng sống bằng nghề viết lách, giáo dục, hội họa... nhưng kẻ thì giàu mà người thì nghèo?



    Đáp: Người được giàu có từ sự nghiệp văn hóa là bởi hai lý do. Hoặc họ biết bố thí ít nhiều bằng đồng tiền kiếm được. Hoặc họ dùng phương tiện văn hóa để kêu gọi mọi người sống Đạo Đức, thương yêu, hy sinh, phụng sự. Nếu thiếu hai nguyên nhân này, bố thí và giáo hóa, người cầm bút sẽ chôn đời mình trong khó nghèo hiu quạnh. Thỉnh thoảng chúng ta đọc vài tác phẩm văn chương cũng nhận thấy rằng có những tác phẩm không chuyển hóa tâm hồn người đọc trở nên thánh thiện cao cả, chỉ vùi họ trong mơ mộng, bâng quơ, ích kỷ, hận thù. Tác giả của những tác phẩm này đi dần vào khốn đốn khổ sở. Ngược lại, những tác phẩm chuyển hóa tâm hồn con người trở nên thuần lương Đạo Đức sẽ đưa tác giả của nó đi về nơi hạnh phúc lâu dài. Nhưng muốn tạo được những tác phẩm có tác dụng giáo dục mạnh mẽ như vậy thì chính tác giả phải tự gột rửa tâm hồn mình trong sạch trước đã.


    Hỏi: Có những người quá nghèo không thể bố thí, làm cách nào đễ họ có thể chuyển nghiệp nghèo khổ đó được?


    Đáp: Không còn con đường nào khác hơn nữa! Họ phải chấp nhận khó khăn hơn nữa, thiếu thốn hơn nữa để san sẻ từng nắm gạo, từng muỗng đường, từng đồng ít ỏi cho người có giới và người làm thiện. Sự cố gắng quá độ đó sẽ trở thành công đức lớn lao cho họ và đập vỡ thói quen bỏn xẻn từ nhiều kiếp trong tâm họ. Nếu không biết bố thí từng chút như vậy, họ sẽ mãi mãi chìm sâu trong nghèo nàn túng thiếu. Người hiểu đạo sẽ khát khao bố thí như người mù khát khao được mắt sáng. Ngoài việc bố thí tài vật ra, họ còn phải dùng công sức đắp đường cho người đi, đào giếng nơi công cộng cho người dùng. Nếu họ là công nhân, họ phải lao động tích cực với ý nghĩ vì xây dựng đất nước. Thật vậy cùng làm tám tiếng đồng hồ trong một xí nghiệp, nhưng một người chỉ hướng đến mục đích kiếm tiền lương về cho bản thân và gia đình, còn một người biết hướng đến mục đích xây dựng đất nước. Phước của hai người này khác nhau rất xa. Do mục đích khác nhau nên thái độ làm việc cũng khác nhau. Người vị kỷ sẽ làm việc một cách uể oải thiếu trách nhiệm (đôi khi tăng thu nhập bằng sự không thành thật). Người vị tha, yêu đất nước sẽ làm việc một cách nhiệt tình và kỹ lưỡng. Mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày họ cách xa nhau trên phương diện phước đức.
    Hơn nữa, người nghèo tức là phước rất ít. Họ cần phải giữ giới luật thật kỹ lưỡng, không sát sinh hại vật, không tà dâm, không trộm cắp... vì sự vi phạm một giới nhỏ cũng đủ đưa họ về địa ngục.


    Hỏi: Người này làm phước rồi chú nguyện cho người kia được chăng?


    Đáp: Được! Ví dụ trong gia đình có người bệnh nằm một chỗ không thể tự làm phước để chuyển nghiệp. Thân quyến của người ấy có thể làm các công đức như phóng sinh, bố thí, đắp đường, in kinh... để hồi hướng chú nguyện cho người ấy khỏi bệnh. Nhưng dù sao thì người tự tay làm vẫn hưởng được phước nhiều hơn người được chú nguyện.
    Một người đạo hữu đã phóng sinh để chú nguyện cho người cha mình qua khỏi bệnh huyết áp cao và tai biến mạch máu não. Trong cơn bệnh ông la hét, đập tay chân, chưởi mắng mọi người. Người đạo hữu ngừng thức ăn huyết nhục, cho ông ăn chay đồng thời mua chim cá phóng sinh chú nguyện cho ông. Ông giảm bệnh một cách rõ rệt và bắt đầu bình tĩnh, trở dậy đi đứng bình thường.
     
  5. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5



    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/I][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    Hỏi: Có thể do gia đình tôi giáo dục un đúc tôi.
    Đáp: Tại sao bạn sinh vào gia đình đó, ngẫu nhiên chăng?
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    Hỏi: Trong khi tôi đang đau khổ, thầy lại trách tôi là đã sai lầm trong quá khứ.

    Đáp: Không có gì làm ta bình yên hơn một khi ta can đảm nhận lỗi về mình. Khi nhận lỗi, ta bỗng có sức mạnh kỳ lạ để chịu đựng nghịch cảnh.
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    Chỉ khác với người không hiểu Đạo lý đã luôn luôn phấn đấu tranh giành hơn thua tham lam ác độc, người hiểu Nhân quả luôn luôn phấn đấu đem điều tốt lành cho mọi người trước rồi hạnh phúc sẽ đến với họ sau. [/COLOR][/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]

    Trước tiên ta phải nghe Phật nói nhiều về những trường hợp Nhân quả điển hình, sau đó rút dần ra các nguyên lý về nhân quả. Ví dụ, Phật nói người bỏn xẻn không biết bố thí sẽ đưa đến nghèo túng; nhưng Phật cũng nói cho tiền bừa bãi không đúng người đúng việc cũng gây nên nghèo túng (Nikaya). [/COLOR][/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    Phật nói việc khinh bỉ người khác có thể khiến ta mắc bệnh lây nhiễm đáng sợ để cho mọi người xa lánh trở lại; còn những bệnh khác hầu hết do sát sinh hay làm tổn hại chúng sinh. Một cái chân tật nguyền có thể do phá đường đi công cộng, hoặc do đã dùng chân đó đá ai bị thương.
    Phật luôn luôn xác định nguyên nhân ban đầu để đưa đến thánh quả giải thoát về sau là đã từng kính trọng một vị thánh giải thoát nào đó rồi. Dĩ nhiên từ lúc gây nhân đến lúc kết quả là ta phải nỗ lực trên nhiều phương diện tu hành khác nữa, nhưng chính cái nhân kính trọng bậc thánh vẫn là động lực đầu tiên.
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/I][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/I][/FONT][/COLOR]
    Đáp: Tình trạng tuổi già và cái chết có nhiều nguyên nhân. Trước hết, ai sống một đời tận tụy đóng góp công sức cho đời thì khi chết nhẹ nhàng. Ai sống nhàn nhàn qua ngày thì khi già bệnh hoạn khó chết.
    Ai sống tốt thì chết nhẹ nhàng; ai sống ác thì khó chết.
    Ai giúp người, hoặc làm nuôi gia đình mà kể công thì già bệnh nằm hoài để cho con cháu nuôi lại cho hết ân nghĩa; ai làm lụng nuôi gia đình mà không kể công thì già ít bệnh để khỏi làm phiền người nhà.
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/I][/FONT][/COLOR]


    Đáp: Muốn có tài năng trí tuệ thì ta có nhiều cách để gieo nhân. Ta phải biết yêu quý phụ giúp người có trí tuệ tài năng; ta phải biết góp công nuôi dưỡng đào tạo tài năng cho trẻ; ta phải biết dùng khả năng của mình để làm những việc chân chính lợi ích cho đời; ta phải biết vui mừng hoan hỷ khen ngợi trước tài năng của người khác. Những ai góp công xây trường học, tặng quà khuyến học cho học sinh, giúp đỡ đời sống thầy cô giáo… đều sẽ có tài năng trí tuệ trong tương lai. Ai dùng tài mình ra để giúp đời, không giấu nghề, không dùng tài năng vào việc ác… thì sẽ có tài lớn trong tương lai.
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/I][/FONT][/COLOR]
    Đáp: Làm phúc nghĩa là ta gây cho người được niềm vui, hạnh phúc, lợi ích, và đặc biệt là gây cho người được trở nên đạo đức thánh thiện. Ngược lại, làm tội nghĩa là ta gây cho người đau khổ, tổn hại, khó chịu, và đặc biệt là gây cho người trở nên mất đạo đức. Vì vậy, công đức lớn nhất là giáo dục giúp đỡ cho người có được đạo đức; và tội lỗi nặng nhất là lôi kéo người vào điều bất thiện.
    Có đạo đức rồi, người đó sẽ tự làm nên những việc tốt và quả báo lành tự đến với họ. Ngược lại, khi đã trở nên ác độc rồi, họ thường làm điều xấu và quả báo thê thảm cũng chờ đợi họ ở tương lai.
    [/COLOR]
    Phúc hay tội là phải được xét trên tác động vào chúng sinh khác. Nếu ta làm những việc riêng cho mình, không gây ảnh hưởng đến ai thì không tạo thành tội hay phúc, chỉ tạo thành bản chất tốt hay xấu cho riêng mình. Chỉ khi nào gây ảnh hưởng lên đời sống và tâm hồn người khác thì lập tức tạo thành tội hay phúc.
    Tuy nhiên, có những việc ta chỉ làm cho mình, nhưng lại ảnh hưởng đến nhiều người. Ví dụ, một người sống nghiêm túc, biết kềm chế, lâu ngày trở thành tấm gương cho người khác noi theo, và như vậy đã gây ảnh hưởng lên tâm hồn cho người khác để tạo thành công đức lớn.
    [/COLOR]
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    Đáp: Nếu muốn hưởng phúc giàu sang phú quý, ta chỉ cần thong thả làm phúc tránh tội là đủ. Nhưng nếu muốn thành tựu công đức tâm linh giải thoát thì ta phải đem cả thân mạng, cả cuộc đời ra mà phụng sự tất cả chúng sinh. Việc tu tập giải thoát tâm linh đòi hỏi phúc phải lớn tột độ. Không thể làm phúc sơ sơ, hoặc vừa làm vừa hưởng mà có thể giải thoát được. Dĩ nhiên gây tội thì không thể giải thoát đã đành, mà ít phước quá cũng không thể giài thoát.
    Nhiều người hiểu lầm cho rằng muốn giải thoát phải để tâm trống không, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không tạo phúc, không tạo tội. Hiểu như vậy là chưa thấu suốt Nhân quả. Phải biết giải thoát tức là làm thánh, mà làm thánh thì không thể ít phước được.
    [/COLOR]
     
  6. kamiya_satoshi Thành Viên Cấp 5

    có tin có lành thôi. Mình van tin vao luật nhân quả.
     
  7. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5


    Tại sao có những người vợ hay chồng ngoại tình?


    "Nhân quả" có nghĩa là "Hành vi", ám chỉ một hành vi nào đó mà chúng ta tham gia vào và những tác động ảnh hưởng của hành vi đó. Khi chúng ta nói về hành vi giết người, chính hành vi đó sẽ cướp đi sinh mạng của một người. Những điều liên quan đền hành vi này là những đau khổ mà nó gây ra cho nạn nhân cũng như những người yêu thương dựa dẫm vào nạn nhân đó. Nhân quả của hành vi này cũng bao gồm cả những ảnh hưởng tác động lên kẻ giết người. Không phải chỉ vậy thôi đâu! Thật ra, mầm mống của một hành vi phi đạo đức sẽ gia tăng phát triển theo thời gian, vì vậy nên sự thiếu lòng thương hại nơi kẻ sát nhân tàn nhẩn đó được bắt nguồn từ những quãng đời trong quá khứ của hắn, khiến hắn xem nhẹ mạng sống của mọi người như mạng sống của loài vật và côn trùng.



    Một tên sát nhân không chắc là sẽ được tái sinh làm loài người ở kiếp sau. Chính hoàn cảnh dẫn đến việc giết người sẽ quyết định mức độ khốc liệt của những hậu quả mà kẻ giết người sẽ gánh chịu. Một tên sát nhân man rợ khoái trá khi phạm tội ác, có lẽ sẽ được tái sinh trong một thế giới tồn tại mà ta gọi là "Địa ngục". Một trường hợp kém khốc liệt hơn - ví dụ, một kẻ giết người vì tự vệ - có thể sẽ được tái sinh nơi một "Địa ngục" chịu ít đau đớn hơn. Những hành vi phi đạo đức gây ra những hậu qủa không nghiêm trọng lắm có thể làm cho một người bị tái sinh làm con vật - không có khả năng rèn luyện tâm hồn.



    Khi người ta được tái sinh làm con người, những hậu quả của những hành vi phi đạo đức trong kiếp trước sẽ quyết định hoàn cảnh của người đó ở kiếp tái sinh mới theo nhiều cách. Những ai đã phá bỏ thai nhi sẽ gặp quả báo về sự chết yểu của mình trong kiếp sau, và ít nhất là trong hiện đời sẽ mất đi khả năng sản sinh ra sự sống vì không biết yêu thương sự sống. Giết chóc, sát sinh trong kiếp trước thì kiếp này phải chịu cuộc đời có tuổi thọ ngắn ngủi hoặc mang nhiều bệnh tật, ốm đau hoặc tử vong do tai nạn. Giết chóc cũng tạo ra khuynh hướng sẽ tiếp tục giết chóc ở kiếp sau. Tương tự, trộm cắp ở kiếp trước thì kiếp này bị nghèo khổ hoặc bị trộm cắp; trộm cắp ở kiếp trước cũng có khuynh hướng tiếp tục trộm cắp ở kiếp này. Tội lăng loàn ngoại tình sẽ dẫn đến hậu quả là kiếp sau phải chịu sự phản bội. Đây là một số hậu quả của 3 hành vi phi đạo đức mà chúng ta phải gánh chịu.




    Cuối cùng, hậu quả của ba hành vi phi đạo đức về tâm hồn là gì? Đời sống hiện tại chúng ta là kết quả của những hành vi của chúng ta ở kiếp trước. Hoàn cảnh tương lai của chúng ta, những thân phận mà chúng ta được tái sinh, những cơ hội mà ta sẽ có được hoặc không thể có được để cải thiện tâm hồn mình đều tuỳ thuộc vào những hành vi của chúng ta ở kiếp này, những hành vi trong hiện tại của chúng ta.



    Mặc dù hoàn cảnh hiện tại của chúng ta được quyết định bởi những hành vi, thái độ của chúng ta trong kiếp trước, chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành vi phi đạo đức của chúng ta trong hiện tại. Chúng ta có khả năng và trách nhiệm điều khiển những hành vi của mình theo xu hướng đạo đức.



    Khi chúng ta cân nhắc một hành vi nào đó, xem xét có hợp với đạo đức hay không, chúng ta nên cân nhắc những động cơ thúc đẩy của hành vi đó. Một người nào đó quyết định là sẽ không trộm cắp chỉ vì anh ta sợ rằng trộm cắp sẽ bị bắt và bị trừng phạt bởi pháp luật, vậy thì quyết định không trộm cắp của anh ta không được xem là hành vi đạo đức, bởi vì trong trường hợp này những suy nghĩ đạo đức không tác động lên quyêt định của anh ta.



    Một ví dụ khác, một người quyết định không trộm cắp với động cơ là do anh ta sợ dư luận:



    "Nếu mình trộm cắp thì bạn bè và hàng xóm sẽ nghĩ sao về mình? Chắc là mọi người sẽ khinh bỉ mình lắm! Mình sẽ bị mọi người ruồng bỏ". Mặc dù quyết định đó được xem là một quyết định tích cực, nó vẫn không được xem là một hành vi đạo đức.



    Bây giờ, một người cũng đi đến quyết định là sẽ không trộm cắp bởi vì anh ta suy nghĩ rằng : "Nếu mình trộm cắp thì có nghĩa là mình tham gia vào một hành vi trái với đạo trời ,trái với đạo làm người!" Hoặc là: "Trộm cắp là một hành vi phi đạo đức, nó làm cho người khác chịu tổn thất và đau khổ!". Với những động cơ suy nghĩ như vậy, quyết định của anh ta trong trường hợp này được xem là một hành vi đạo đức , hợp luân thường đạo lý. Theo học thuyết của Đức Phật, nếu sự cân nhắc của bạn dựa trên cơ sở của sự tránh né những hành vi phi đạo đức thì bạn sẽ không thể vượt qua được những đau khổ buồn phiền, và quyết định đó không được xem là một hành vi đạo đức; nếu quyết định của bạn dựa trên cơ sở hạn chế những hành vi phi đạo đức thì quyết định đó được xem là một hành vi đạo đức.
     
  8. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Quả báo của việc sát sinh

    [FONT=Arial,Helvetica]Người sát sinh tức là triệt mất thọ mạng của chúng sinh. Sự đền trả tương xứng dành cho họ là bệnh hoạn và yểu mệnh. Sau khi nghe tin báo là đã thiêu mấy vạn quân địch trong hang núi, Khổng Minh than thở rằng ông sẽ giảm thọ một kỷ (mười hai năm). Quả báo hiện đời như vậy là quá nhẹ. Có thể do công đức trong đời quá khứ của ông rất lớn chăng?[/FONT]


    [FONT=Arial,Helvetica]Được thấy cho biết rằng mình sẽ chấm dứt thọ mạng trong bảy ngày nữa. Ông Sa Di xin về thăm nhà. Giữa đường ông vớt một ổ kiến to trôi theo nước lũ. Công đức này đã kéo dài thọ mạng của ông thêm một thời gian nữa.[/FONT]


    [FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng thường gặp những người có vẻ hiền lành, chưa thấy tạo nghiệp gì quá đáng nhưng vẫn chịu một đời sống ngắn ngủi. Có khi họ nhận một tai nạn bi thảm như đụng xe, trôi sông lửa cháy... rồi mạng sống kết thúc. Cũng có khi họ bệnh qua loa rồi mất. Những hiện tướng như thế đều là sự báo ứng từ nghiệp sát sinh trong quá khứ.[/FONT]




    [FONT=Arial,Helvetica]Như đã nói, sát sinh luôn luôn là một bất thiện nghiệp. Tuy nhiên một bất thiện nghiệp có thể được hóa giải bởi một đại thiện nghiệp. Đại thiện nghiệp được nhắc đến ở đây là chiến đấu bảo vệ sự bình yên cho nhân dân bên trong lãnh thổ. Nếu người chiến sĩ phải chiến đấu để ngăn chặn sự xâm lăng từ bên ngoài, giữ cho phần đất bên trong được yên ổn, cho em bé ngày ngày tới trường, cho mẹ già say giấc ngủ trưa, cho cánh đồng xanh màu lúa mới, cho chuông chùa văng vẳng xa đưa... thì sự chiến đấu này là một thiện nghiệp lớn lao hóa giải bớt bất thiện nghiệp của sự sát sinh. Chính sự cao thượng nơi lòng hy sinh cuộc sống của mình để đem lại yên ổn cho những người khác là một công đức lớn.[/FONT]


    [FONT=Arial,Helvetica]Ngược lại, nếu đây là sự xâm lăng đúng với bản chất của nó, có thể nó được che đậy bởi những chiêu bài khéo léo và lý tưởng, nhưng nó đã dấy lên khói lửa loạn lạc, dấy lên tung tóe kinh hoàng, thì sự sát sinh này đưa những người chiến đấu đi về ác đạo lâu dài về sau.[/FONT]


    [FONT=Arial,Helvetica]Qua vấn đề trộm cắp. Khi tôi còn là một Sa Di, ở nơi chiếc thất nhỏ trên cánh đồng vắng, tôi quen với một thanh niên hiền lành ít nói và nghèo khổ nhìn dòng chữ "Thừa phủ ngày..." được xâm nơi bắp chân tôi chẳng hiểu gì. Sau này anh vợ của thanh niên đó là một phật tử cho tôi biết thanh niên kia đã từng ở tù tại nhà lao Thừa phủ Huế, vì tội trộm cắp. Vì chứng kiến một quả báo hiện đời mà anh trở nên tin luật Nhân Quả Nghiệp báo. Có một lần anh cuỗm mất cái giỏ xách tay của một thiếu phụ chuẩn bị đồ đạc để đi nhà bảo sanh vì cơn đau đẻ đã xuất hiện. Mất giỏ đồ, người thiếu phụ khóc hết nước mắt. Sau này anh vào nam lập gia đình. Đêm trước ngày đưa vợ đi sanh, cướp vào nhà lấy đúng cái giỏ xách đựng đồ đạc để đem đi nhà bảo sanh. Vợ anh khóc hết nước mắt còn anh thì ngậm ngùi thống hối ăn năn. Biết chuyện như vậy tôi thường khuyên anh ráng đem công sức đắp lại những đoạn đường hư trong xóm làng. Có khi chính tôi phải tìm đoạn đường cần đắp và rủ anh cùng làm. Sau này tôi rời vùng đó đi về nơi khác, mọi chuyện chìm vào quên lãng theo thời gian phôi pha. Chợt người anh vợ đến tìm tôi, trao tôi món quà của người thanh niên năm nào, và cho biết vợ chồng anh ta đã trở nên khá giả rất nhiều.[/FONT]


    [FONT=Arial,Helvetica]Sự mất mát đồ đạc không chỉ đơn thuần là thiếu thốn, nó còn là nỗi bế tắc tuyệt vọng trong đời sống của con người. Bạn có thể tưởng tượng ra sự đau khổ tuyệt vọng của một người tới ngày sanh đẻ bị lấy mất hết đồ đạc. Đây là một trường hợp, còn vô số những trường hợp đau đớn hơn nhiều. Có khi người bị mất đã phải dùng đến biện pháp tự vẫn. Vì kẻ trộm cướp đã lấy đi chút tài sản nương tựa cuối cùng trong đời họ. Có khi vì món đồ bị mất, vợ chồng cha con nghi kỵ chia rẻ với nhau, ở đây sự trộm cắp đã tác thành sự bất hòa. Món đồ bị mất không chỉ đưa đến sự giảm thiểu tài sản mà thật sự đã đưa đến nhiều đổ vỡ tinh thần của mọi người. Sự đau khổ do trộm cắp gây nên đã nhiều như núi như biển. Vì vậy, quả báo chờ đợi cho kẻ tội lỗi này là hình phạt và khổ cảnh nơi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nếu sự đền trả đã vơi, hoặc nếu kẻ kia đã tạo được nhiều công đức to lớn để vẫn được thân người, thì quả báo rất nhẹ chờ đợi cho y là tài sản bị tổn hại. Nếu đời này chúng ta thỉnh thoảng bị mất trộm, hãy thản nhiên chấp nhận một cách vui vẻ vì tin rằng đây là nghiệp quả từ thuở lâu xa nào rơi rớt đến tận hôm nay.[/FONT]

     
  9. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Hỏi: Những người sinh sống bằng nghề câu cá, săn bắn, bẫy rập sẽ cảm quả báo gì?
    Đáp: Hình ảnh con cá vùng vẫy trong tuyệt vọng đau đớn sau khi đớp phải miếng mồi dụ dỗ sẽ trở thành hình ảnh của người cầm cần câu. Nếu người này còn phước không bị đọa thân súc sinh, họ cũng phải cảm báo bị lừa gạt đến tuyệt vọng đau khổ.
    Người giăng bẫy giết thú rừng lớn thì tội càng nặng hơn nữa. Hình ảnh con thú đang đi bị sụp hầm, bị treo chân... cũng sẽ trở lại là hình ảnh của người giăng bẫy. Sau khi đền trả tội lỗi ở đọa xứ, họ sẽ được làm người với hầm chông, thòng lọng đang chờ đón. Nếu những con thú được trở lại thân người, chúng sẽ là những kẻ thù của những ai đã giăng bẫy bắt chúng. Một nhân xấu luôn luôn để lại phía sau đó những ảnh hưởng tai hại lâu dài.
    Người săn bắn thì sẽ bị chết bởi vũ khí và chó săn cắn xé.
    Khi Judàs dẫn lính đến bắt Chúa Jésus. Simon Pierre rút gươm chém rớt vành tai của người lính để bảo vệ Chúa. Chúa phán:
    “Simon, hãy buông gươm xuống, vì ai dùng gươm sẽ phải chết bằng gươm”


    Hỏi: Có phải những người giúp nhau hay hại nhau là do đã từng giúp nhau hay hại nhau từ quá khứ?
    Đáp: Không hẵn như thế! Bản thể bao hàm trùm khắp không riêng ai. Ông A giúp ông B nhưng sẽ được giúp lại bởi ông C. Bà E hại bà D, nhưng sẽ bị hại lại bởi bà F.
    Còn đã từng giúp hay hại nhau thì khi gặp lại sẽ khởi sinh thương hay ghét mà thôi.
    Người gieo duyên với vị Phật này, nhưng sẽ được tiếp độ bởi vị Phật khác; gieo duyên với vị Alahán này, nhưng vẫn được tiếp độ bởi vị Alahán khác.


    Hỏi: Những khuyết tật về mắt là do nhân gì?
    Đáp: Một quả báo không phải sinh ra từ một nhân duy nhất. Trước hết, mắt là cơ quan để nhìn thấy mọi vật. Nếu cản trở sự nhìn thấy của mọi người, chúng ta sẽ cảm báo bị khuyết tật về mắt. Sự cản trở đó có thể là lấy mất đèn đuốc nơi công cộng; hoặc chỉ dẫn đường lối sai lầm; hoặc gieo rắc tà kiến lệch lạc; hoặc giam hãm cúng sinh trong tối tăm, hoặc biết là sai mà vẫn nhắm mắt làm bừa, hoặc thấy người khác khổ mà làm ngơ...
    Muốn chuyển nghiệp này chúng ta phải làm ngược lại, nghĩa là cúng đèn đuốc thắp sáng nơi công cộng; chỉ đường dẫn lối cho chính xác; ấn tống kinh sách Đạo Đức Nhân Quả; phóng sinh thú vật khỏi chỗ tối tăm tù túng; giữ giới cấm một cách kỹ lưỡng... Thực hiện được như vậy mắt sẽ khá hơn, nếu nhẹ sẽ hết hẳn.


    Hỏi: Những khuyết tật về chân là do nhân gì?
    Đáp: Chân là cơ quan để di chuyển. Làm trở ngại sự di chuyển của chúng sinh, người này sẽ bị khuyết tật về chân. Những trở ngại đó được xem là phá đường, lấp ngõ, dỡ cầu..., hoặc giam cầm thú vật chim chóc, hoặc bẻ gãy đùi ếch, cắt nhượng bò. Nếu chặt chân người thì đọa địa ngục.
    Muốn chuyển nghiệp này, chúng ta cần phải làm ngược lại nghĩa là đắp đường, bắt cầu nơi công cộng. Nếu gần nhà bạn có đội thi công làm đường, bạn hãy đóng góp bằng cách bồi dưỡng thức ăn uống cho anh em công nhân. Công đắp đường bắt cầu rất lớn vì giao thông là điều kiện quan trọng trong đời sống xã hội. Ngoài việc giải những ác nghiệp về thân thể, người tạo công đức này sẽ được khỏe mạnh, giàu có, xe cộ xênh xang.
    Tôi có nghe một người bị bại chân, sau khi bỏ tiền đắp lại đoạn đường trong làng đã đi đứng bình thường.


    Hỏi: Tại sao có những người giàu có mà không để ý gì đến Đạo Đức?
    Đáp: Dù hiện tại họ dường như không biết đến Đạo Đức, nhưng trong quá khứ họ đã từng làm được những công đức lớn lao. Ví dụ người thanh niên xung phong vì bổn phận đã tham gia đào thành con kênh dài dẫn nước tưới mấy ngàn hecta ruộng lúa. Quả báo khách quan phải đến với những người này là sự sung mãn vật chất, ở đâu cũng để có nước xài không bị khô hạn. Hoặc họ là công nhân đắp đường bắt cầu; hoặc họ là chuyên viên nghiên cứu phát triển nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế cho quốc gia; hoặc họ đã từng vô tình cúng dường phải bậc Alahán... Họ không để ý nghiên cứu về Đạo Đức, nhưng thật sự họ đã làm được những công đức lớn lao.


    Hỏi: Những nhân viên công lực cảnh sát giam cầm bắt bớ tội nhân là tội hay phước?
    Đáp: Trước hết chúng ta đòi hỏi nhân viên an ninh phải có lòng thương yêu tất cả mọi người rồi sẽ đánh giá tội phước của họ vì vấn đề này rất rắc rối. Trên hình thức cạn cợt, chúng ta dễ cho rằng nhân viên an ninh đã đối xử tàn nhẫn với tội nhân như còng trói, giam giữ, đôi khi phải quật ngã họ. Nhưng nhìn trên bình diện xã hội thì việc làm bắt giữ tội nhân có hai cái lợi. Thứ nhất là giữ gìn an ninh cho xã hội. Thứ hai là buộc tội nhân trong tình trạng không thể gây thêm tội lỗi trong đời họ nữa. Trên hai ý ngĩa này thì việc làm của nhân viên an ninh được xem là công đức. Tuy nhiên chúng ta mong mỏi họ vẫn có lòng thương yêu tội nhân mặc dù bất đắc dĩ phải đối xử cứng rắn.


    Hỏi: Việc xịt thuốc rầy để bảo vệ cây trồng là tội hay phước?
    Đáp: Ngày nay chúng ta phát minh ra quá nhiều loại thuốc độc để diệt trừ sâu rầy với quan niệm bảo vệ cây trồng bảo đảm nguồn thực phẩm cho xã hội. Thuốc giết những sâu bọ có hại và cũng giết luôn cả những sâu bọ có lợi. Những ốc, trùng, cá, vi sinh vật trong môi trường đất và nước đó đều bị tiêu diệt. Những vi khuẩn cho đất cũng bị tổn hại. Thuốc còn đọng lại trong cây (như Furadan) sẽ cung cấp độc tố cho cơ thể con người. Đó là lý do tại sao ngày nay nhiều bệnh lạ xuất hiện hơn ngày xưa.
    Chúng ta không vững niềm tin với luật Nhân Quả Nghiệp báo, không tin rằng do phước lực của mình mà mùa màng đi đến thạnh mậu hay thất thu. Trái lại chúng ta đã tạo thêm ác nghiệp trong việc xịt thuốc giết côn trùng. Nếu có thu được nông phẩm thì nông phẩm đó là một loại thuốc độc tai hại lâu dài cho cơ thể. Chúng ta hãy gan dạ làm phước như giữ giới, bố thí,... và sẽ thấy được hiệu quả của phước lực mạnh gấp bội lần thuốc giết côn trùng.


    Hỏi: Tại sao có những dòng tộc nối truyền nhiều đời và luôn luôn đạt được sung túc, nguyên nhân đó là gì?
    Đáp: Bởi hai nguyên nhân. Một, vị tổ tiên ban đầu là người có phước lớn. Hai, dòng tộc này có một truyền thống Đạo Đức để dạy bảo cho con cháu.
    Dòng tộc nhiều đời phú quý thịnh đạt có nghĩa là những vị tổ tiên ban đầu luôn luôn được nhắc nhở tưởng niệm, cúng thờ chu đáo. Để được quả báo này, những vị đó phải là người có phước lớn. Những triều đại vua chúa là một bằng chứng cụ thể. Có những triều đại nối tiếp mấy trăm năm và vị vua khai sáng ban đầu được kính thờ như thần thánh.
    Hơn nữa nếu dòng tộc này có một nền Đạo Đức tốt đẹp để dạy bảo cho con cháu thì sự thịnh đạt của họ không thể định được giới hạn cuối cùng. Thế nên từ nay mỗi gia đình đều phải lập cho mình một truyền thống Đạo Đức nhất là đánh thức sự hiểu biết về đường đi của Nghiệp báo cho mọi người. Trong những buổi họp mặt gia đình, bậc cha mẹ hãy đặt những câu hỏi về Nghiệp báo để cho các con cháu tự suy gẫm trả lời, hoặc kể những mẫu chuyện liên quan đến Nhân Quả và bảo mọi người rút ra một nhận xét. Những buổi sinh hoạt Đạo Đức như vậy dần dần tạo cho con cháu một lương tâm sáng tỏ. Chúng sẽ tự biết tránh ác làm lành và dòng họ sẽ trở nên phú quý thịnh đạt.


    Hỏi: Tại sao có những người vừa gặp nhau đã đem lòng quý mến hoặc ác cảm?
    Đáp: Khi luận về đường đi phức tạp của Nhân Quả Nghiệp báo, chúng ta không thể bỏ qua sự liên quan – DUYÊN – của các chúng sinh từ quá khứ với nhau. Không phải ngẫu nhiên khi gặp nhau, hai người đã có thiện cảm từ buổi đầu, cũng không phải ngẫu nhiên khi gặp nhau, vài kẻ đã sinh ác cảm từ sơ ngộ. Sự đối đãi ân oán với nhau từ quá khứ sẽ biến thành thái độ trong hiện tại.
    Nếu đời này gặp lại, một kẻ trở nên kính phục, thương mến, vâng lời, hầu hạ cho người khác, phải biết do nợ nần ân nghĩa quá khứ thúc đẩy chi phối. Sự thọ ân khiến một người trở thành kẻ thuộc hạ, và sự ban ân khiến một người trở thành thủ lĩnh. Trong gia đình, người làm anh làm chị là người ban ân và người làm em làm út là người thọ ân. Dù một đảng cướp thì tên đại ca vẫn là kẻ đã ban ân và lâu la là kẻ đã thọ ân. Người được làm lãnh tụ quốc gia cũng chỉ vì đã ban phát ân nghĩa cho quá nhiều người trong quá khứ. Sự ban ân luôn luôn đưa một người đến địa vị quan trọng. Biết được nguyên lý này, chúng ta sẽ dè dặt khi thọ ân người khác. Nếu ân nhân là người chân chính quảng đại, chúng ta có thể thọ chút ân cũng không đến nỗi nguy hiểm vì trở thành người dưới tay của một chính nhân quân tử cũng tốt thôi. Nếu thọ ân của người ác, sau này chúng ta phải chịu họ sai sử tạo nhiều ác nghiệp rồi theo họ vào đọa xứ. Đối với kẻ xấu, Bồ tát thường rộng rãi ban ân để tạo thành thiện duyên về sau có thể nhiếp hóa họ, khác với chúng ta thường ruồng rẫy kẻ xấu. Tuy nhiên việc giáo hóa kẻ ác tâm không đơn giản một chiều vì phải vừa cứng rắn vừa mềm dẻo.
    Luyến ái là một duyên mạnh mẽ dễ được lập đi lập lại nhiều lần. Đã từng thương yêu nhau trong quá khứ, đời này gặp lại, tình yêu dễ phát sinh. Các văn sĩ đã thi vị hóa sự kiện này và gọi là tiếng sét ái tình. Vừa gặp nhau lần đầu trái tim hai bên đã nghe bồi hồi xao xuyến như đã từng thương yêu nhau từ lâu lắm. Tuy nhiên một đời người thường hay trải qua nhiều mối yêu đương chỉ vì trong nhiều kiếp luân hồi họ đã gặp gỡ rất nhiều người yêu, nhiều tơ duyên vợ chồng khác nhau. Những người đã từng làm vua quan trong xã hội phong kiến với lê thê tỳ thiếp, các dời về sau họ phải nhận lấy cung mạng đào hoa lăng nhăng tình ái. Tuy nhiên, nếu buông thả phóng túng họ sẽ đọa vào ác đạo.
    Dĩ nhiên sự tương duyên Nghiệp báo không có tính cách cố định như khái niệm số mệnh. Nó có thể được chuyển đổi bởi ý chí của con người. Ví dụ khi gặp lại người nghịch duyên, nghĩa là sẽ đi tới chỗ ác cảm ganh ghét, nhưng nếu chúng ta khéo léo nhẫn nhục, rộng rãi bố thí ban ân, dùng lời ái ngữ dịu dàng, thì nghịch duyên ngày xưa sẽ chuyển thành thiện duyên ngày mai. Ví dụ một người phát tâm tu giải thoát, bất chợt gặp lại người vợ trong tiền kiếp. Điều chắc chắn là người này sẽ nghe lòng bận tâm, ưu tư, xao xuyến. Nếu buông thả theo tình cảm, họ sẽ lui lại sự ràng buộc trong luyến ái. Nếu họ phát tâm mạnh mẽ, dùng ý chí sắt đá gan dạ vượt qua thì duyên xưa cũng được hóa giải.
    Nếu cố gắng, chúng ta đều có thể chuyển đổi tương duyên ngày xưa đi theo một chiều hướng khác.


    Hỏi: Vì sao một người có tâm hồn ít bị xao động hoặc nhiều xao động?
    Đáp: Nếu họ hay làm bận tâm người khác vì sự hiện diện của họ, họ sẽ cảm quả báo tâm hồn thường xuyên xao động khó yên.Việc làm người bận tâm được hiểu như nói năng ồn náo giữa chốn đông người; hoặc gieo tình cảm nơi người nào khiến họ thương nhớ khôn nguôi; hoặc nói nặng lời khiến người đau khổ nhục nhã; hoặc dùng văn thơ nhạc kịch kích động tình cảm hận thù nơi mọi người; hoặc kêu gọi đấu tranh chém giết lẫn nhau; hoặc tuyên giảng tà kiến phi chân lý; hoặc làm mai mối hợp tác cưới gả; hoặc tổ chức chọi gà; đấu võ đài... Làm bận tâm người thì tâm ta không thể nào an ổn được.
    Muốn tránh quả báo bất an nơi tâm, chúng ta nên dè dặt đừng làm loạn tâm người dù với bất cứ cách nào. Chỉ nên sống đời thầm lặng ít nói bớt duyên. Nếu phải trình bày với mọi người, chỉ nên đem luật Nhân Quả và Thiền Định để khuyến hóa họ tu tập. Làm sao cho sự hiện diện của chúng ta khiến mọi người cảm nghe an ổn thanh lương thoải mái và phát khởi tinh tấn tu hành.
     
  10. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Hỏi: Trong một gia đình, tại sao có những đức con dễ dạy, hiếu hạnh, làm đẹp lòng cha mẹ, nhưng lại cũng có những người con khó dạy, ngỗ nghịch, làm buồn lòng cha mẹ? Đáp: Cũng do nhiều nguyên nhân. Nếu những đời trước cha mẹ thường dạy con cái Đạo Đức thì đời này trở lại gặp nhau, cha mẹ được hưởng quả báo vui sướng đẹp lòng khi có những người con ngoan ngỗn. Nếu đời trước cha mẹ không biết dạy con Đạo Đức, lại hay xúi giục, đồng ý cho con cái gây gỗ phá phách người khác, thì đời này trở lại gặp nhau, cha mẹ sẽ bị quả báo đau khổ buồn lòng vì những đứa con ngỗ nghịch.
    Cũng có khi bậc cha mẹ đó thuở trước là những người con bất hiếu ngỗ nghịch, đối xử tê bạc với cha mẹ mình, sau này chính mình phải gặp những đứa con tệ bạc trở lại.
    Hoặc bậc cha đó đời trước quỵt nợ của ai một số tiền lớn. Sau này chủ nợ trở lại làm con để nhận sự chăm sóc đền bù. Mặc dù làm con nhưng niềm hận thù chưa nguôi nên đứa con này thường hay nói nặng lời và hất hủi cha mẹ nó.
    Muốn hóa giải nỗi khổ tâm này, bậc cha mẹ phải ấn tống truyền bá những kinh sách về Nhân Quả Nghiệp báo để tích lũy cho mình một nguồn phước lớn. Từ nguồn phước lớn này họ mới đủ sức cảm hóa những người con ngỗ nghịch kia hồi tâm thuận thảo. Họ phải trì giới, phải thương người, bố thí rộng rãi để làm gương cho con cái, phải nhẫn nhục để trả nghiệp với nó và khi nào thuận tiện, uy đức mình đã đủ sẽ khuyên bảo chuyển hóa nó
     
  11. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Tại sao có những người giàu có lại sống khắc khổ?

    (Trích Tương ưng bộ kinh 1 tr 110) Rồi vua Pasenadi nước Kosala, giữa trưa đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên.

    – "Này Đại Vương, Đại Vương đi đâu giữa trưa thế này?"

    – "Ở đây, bạch Thế Tôn có triệu phú gia chủ ở Sàvathi bị mệnh chung và con đến để xem tài sản của vị không có con (thừa tự) ấy được chở vào nội thành. Bạch Thế Tôn, có đến tám triệu đồng tiền vàng, không nói đến tiền bằng bạc. Bạch Thế Tôn, tuy vậy đồ ăn của vị gia chủ ấy lại chỉ gồm có cháo tấm chua ngày hôm qua để lại. Còn vải mặc chỉ mang vải gai may thành ba tấm. Còn xe thì đi xe nhỏ cũ kỷ và hư nát, có gắn tán che bằng lá".

    – "Thật như vậy. Này Đại Vương! Thật như vậy, này Đại Vương, vị triệu phú gia chủ ấy thuở xưa đã bố thí thức ăn khất thực cho một vị Bích Chi Phật tên là Tayarasikkhi. Vị ấy nói:"Hãy bố thí cho vị Sa Môn", nói xong vị ấy từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bỏ đi. Nhưng sau đấy, vị ấy tiếc rẻ nói rằng: "Tốt hơn, thức ăn này dành cho người phục dịch hay làm công" và hơn nữa, vị ấy đoạt mạng sống đứa con độc nhất của người anh vì tài sản của nó"

    "Này Đại Vương, vì người triệu phú gia chủ ấy có bố thí đồ ăn khất thực cho vị Độc Giác Phật tên là Tayarasikkhi. Do kết quả hành động ấy, vị ấy sinh bảy lần lên thiện thú thiên giới. Do kết quả dư hưởng còn lại, vị ấy được làm nhà triệu phú bảy lần ở tại Sàvathi này".

    "Này Đại Vương, vì người triệu phú gia chủ ấy sau khi bố thí, về sau lại tiếc rẻ nói rằng:"Tốt hơn thức ăn này để dành cho những người làm công phục dịch". Do kết quả của tác ý tiếc rẻ đó, tâm nó hướng đến các món ăn, đồ mặt không được tốt đẹp, tâm nó hướng đến các xe cộ, về sự thọ hưởng năm dục không được tốt đẹp.

    "Này Đại Vương, vì người triệu phú gia chủ ấy đoạt mạng sống người con độc nhất của người anh để dành tài sản. Do kết quả của hành động ấy, nó bị nung ở địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều trăm ngàn năm. Do kết quả dư hưởng còn lại, gia tài không con thừa tự, bảy lần phải nhập vào công khố của vua. Này Đại Vương, đối với người triệu phú gia chủ này, các công đức cũ bị đoạn diệt và công đức mới chưa được cất chứa thêm. Và nay, này Đại Vương người triệu phú gia chủ đang bị nung nấu trong địa ngục Mahàsoruva".

    – "Bạch Thế Tôn, như vậy người triệu phú gia chủ đã sanh vào địa ngục Mahàsoruva?"

    – "Này Đại Vương, đúng như vậy, người triệu phú gia chủ ấy đã sanh vào địa ngục Mahàsoruva!".

    "Lúa, tài sản, vàng bạc, Hay mọi vật sở hữu. Nô Tỳ và lao công Các mạng sống tùy thuộc. Tất cả nó phải đi Không đem theo được ai Tất cả phải bỏ lại Khi nó đi một mình" "Chỉ có các hành động Về thân, miệng và ý Mới thật thuộc của nó Như bóng không rời hình "Do vậy hãy làm lành Tích lũy cho đời sau Công đức cho đời sau làm hậu cứ cho người"


    NHẬN XÉT:

    Câu chuyện Nghiệp báo này có nhiều điểm đáng chú ý. Một sự cúng dường vật thực cho một vị giải thoát đem đến phước báo quá lớn lao, bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh vào cõi người làm kẻ giàu có.

    Hai, tâm tiếc rẻ là nhân để kết thành nhân hà tiện ở đời sau.

    Ba, phá hoại sự thừa tự của người khác nên tài sản chính mình không có người thừa tự.

    Bốn, giết người phải đọa địa ngục. Năm, không tích lũy thêm công đức là điều nguy hiểm. Chúng ta phân tích trở lại từng vấn đề.

    Tại sao cúng dường cho bậc Thánh giải thoát lại được phước báo quá lớn lao như vậy! Quả báo đợi chờ cho chúng ta tùy thuộc vào phúc lạc mà chúng ta đã đem đến cho người. Chúng ta bố thí vật thực cho một phàm phu sống qua một ngày. Nhưng một ngày của kẻ phàm phu là một ngày tham lam, thù hận, một ngày khổ sướng buồn vui. Vì phúc lạc của họ quá ít ỏi nên quả báo dành cho người bố thí cũng hạn chế.

    Ngược lại, một bữa ăn dành cho bậc đạt đạo sống qua một ngày thênh thang phúc lạc một ngày bát ngát trí tuệ từ bi, nên quả báo trở lại cho người thí chủ cũng là vô biên vô lượng.

    Tôi đặt vấn đề này để những người thọ thí hãy cố gắng tu hành đắc lực cho thí chủ được nhiều phước báo chứ không phải nói cho người bố thí chỉ lựa người tu hành mà bỏ qua những chúng sinh khốn khổ chung quanh. Người bố thí chỉ nên vì từ bi mà bố thí, đừng bố thí bằng cách lựa chọn để mong cầu phước báo cho mình. Được sự hướng dẫn của từ bi, sự bố thí đó không còn phân biệt, không phải là việc kinh doanh phước báo cho mình. Từ bi là nguồn mạch của công đức, thế nên chúng ta hãy san sẽ tài vật trong ưu ái thương yêu đối với mọi người. Những bậc Thánh giải thoát thường giấu mình trong một hình thức tầm thường giản dị. Trong những người tầm thường giản dị mà chúng ta đã gặp gỡ bố thí, biết đâu cũng có người phi phàm vượt thế. Chỉ một lần dâng tặng đến người như thế, phúc lạc chờ đợi cho chúng ta là vô hạn ở mai sau.

    Tâm tiếc rẻ tức là không muốn cho kẻ khác được thọ hưởng tài vật. Kết quả của nó là người đó sẽ tự mình không muốn mình được thọ hưởng tài vật, tự mình khắc nghiệt hạn chế với mình. Chúng ta cũng dễ thấy điều này trong đời sống, khi người nào bỏn xẻn không muốn kẻ khác dùng một bữa cơm trong nhà mình, đến khi lỡ đường gặp bữa, họ rất ngượng ngùng áy náy bất an khi phải dùng cơm nơi nhà kẻ khác. Ngược lại, người hào phóng rộng rãi ân cần tiếp đón chiêu đãi tân khách, đến khi gặp bữa chỗ lạ, họ vẫn dùng một cách tự nhiên thoải mái. Tâm tiếc rẻ của người triệu phú gia chủ đã biến thành tâm hà tiện để đày đọa ông qua nhiều đời mệt mỏi vất vả, tuy giàu mà sống lam lũ như người nghèo. Chúng ta khắc nghiệt với chính mình vì chúng ta đã khắc nghiệt với mọi người. Chúng ta phải xóa sạch tâm tiếc rẻ và tâm hà tiện để nơi cuộc sống này chúng ta không làm khổ mình và không làm khổ người.

    Tuy nhiên, tâm tiếc rẻ và ý thức tiết kiệm khác nhau rất xa dù hai trạng thái mơ hồ tương tự. Tâm tiếc rẻ là không muốn cho người khác được thọ hưởng tài vật.

    Tâm tiết kiệm là không muốn cho tài vật bị hư hao vô cớ, chỉ nên để cho người thọ hưởng.

    Ví dụ, một người cúi xuống nhặt lấy từng chiếc đinh rơi vãi trên đất, nhưng sẵn sàng bố thí cả nghìn đồng cho kẻ khác khó khăn. Người này tiết kiệm nhưng quảng đại, không phải là kẻ hà tiện hẹp hòi.

    Còn một người ky cõm từng chút không muốn mất một chút gì với ai, đó là người bỏn xẻn hà tiện. Hà tiện, hoặc bố thí mà tiếc rẻ là nhân đưa đến đau khổ. Tiết kiệm và rộng lượng là nhân đưa đến an vui. Tuy nhiên, chúng ta phải tinh tế để đừng tự lừa dối chính mình, đừng giữ tâm hà tiện mà lại cho là tiết kiệm, cũng đừng phung phí mà lại tự cho là rộng rãi. Phung phí là tiêu xài tài vật không đúng cách, không hợp lý, là một bất thiện nghiệp chứ không phải là thiện nghiệp. Ví dụ có một số tiền cần để xây dựng lại nhà ở cho thân quyến, nhưng chúng ta đem đổ vào một cuộc vui tạm thời. Như thế là phung phí không hợp lý chứ không phải rộng lượng. Tặng kẻ đánh bạc vài nghìn đồng là phung phí, trong khi tặng người đói rách số tiền ấy là rộng lượng. Biếu vài lít rượu, đãi một tiệc nhậu say sưa là hành vi phung phí tội lỗi trong khi có nhiều người thiếu thốn khác cần cơm gạo để đi qua một ngày đói kém. Chúng ta phải bỏ đi tâm hà tiện, nhưng cũng đừng phung phí, phải cân nhắc cẩn thận khi sử dụng tài vật sở hữu của mình.

    Người gia chủ đã giết con của anh mình để đoạt lấy tài sản, vừa giết người vừa cướp của. Ông ta đã đền trả tội lỗi ấy bằng nhiều năm ở địa ngục, nhưng chút nghiệp thừa rơi rớt cũng đủ khiến cho ông không bao giờ có con để thừa tự tài sản, nỗi đau khổ ghê gớm của những người giàu có! Những vì vua không con nối ngôi cũng được liệt vào loại Nghiệp báo tương tự. Tuy nhiên quan niệm này cũng không thể nhìn một chiều. Người Trung Hoa đã từng quan niệm đông con là có phước. Họ đã vẽ ba ông già Phước Lộc Thọ làm biểu tượng cho ba niềm sung sướng của họ, trong đó ông già Phước bồng bế nhiều đứa con trai. Quan niệm này đã khiến người Trung Hoa tăng vọt dân số khủng khiếp và đã khiến giới lãnh đạo phải bận tâm rất nhiều. Chiến thuật biển người dùng trong chiến tranh cũng là một lối giải quyết bi đát. Lại những gia đình đông con thường là những gia đình nghèo khó, không có vốn liếng tích lũy, vì phải giải quyết cơm ăn áo mặc hàng ngày. Đối với người giàu có, đông con cũng là một vấn đề phức tạp khi phải chia xẻ gia tài. Không người thừa tự tài sản là nỗi đau khổ của người ích kỷ, nhưng đông con cũng là nỗi lo lắng của mọi người. Thế gian vốn mâu thuẫn và không hoàn hảo như vậy.

    Giết vài con vật nhỏ đưa đến quả báo đứt tay trầy chân hoặc bệnh hoạn vài trận. Giết thú lớn đưa đến quả báo tai nạn và bệnh hoạn nặng nề hơn nhiều. Còn giết rất nhiều thú vật mỗi ngày để kinh doanh thì không tránh khỏi quả báo địa ngục. Tuy nhiên, giết thú không nặng tội bằng giết người. Giết người để tranh đoạt tài sản đã đưa ông gia chủ chịu hình phạt ở địa ngục nhiều nghìn năm. Chúng ta không so sánh những trường hợp phải giết người trong một cuộc chiến đấu giữ gìn bờ cõi. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến trường hợp giết người vì ác tâm và những mục đích vị kỷ. Tội lỗi của hành vi này rất là nặng nề nghiêm trọng. Bản chất của chúng sinh, dù loài nào cũng đều ham sống sợ chết. Người tự tử cũng là người ham sống, họ tìm cái chết để tránh một cuộc sống quá đau khổ tuyệt vọng. Giết hại chúng sinh tức là gây cho chúng sinh một sự đau đớn về thân và một sự tuyệt vọng khi lòng ham sống bị xâm phạm. Hơn nữa, cái chết của một chúng sinh luôn luôn đồng nghĩa với sự biệt ly thân quyến. Một người cha mất đi cũng có nghĩa là vợ con ở lại rơi vào túng quẩn nghèo đói. Một người mẹ mất đi cũng có nghĩa là những đứa con còn lại sắp phải chịu cảnh mẹ kế con chồng, thảm kịch muôn đời của nhân loại.

    Những kẻ quen tay giết hại thú vật nhỏ sẽ dễ dàng giết hại thú vật lớn, và kẻ quen tay giết hại thú vật lớn sẽ dễ dàng giết hại con người. Thế nên để ngăn chận nghiệp giết người từ ban đầu, chúng ta phải dè dặt đừng xâm phạm tính mạng từng sinh vật nhỏ, quí trọng sự sống của mọi loài nhỏ nhít.
    Trong đời sống thường ngày, chúng ta cũng thường gặp những kẻ giàu sang dư dả, nhưng họ chỉ hưởng thụ qua một đời vô vị mà không biết tạo tác tích lũy thêm căn lành cho đời sau. Những nghiệp thân khẩu ý hàng ngày, dù ít hay nhiều, cũng đều trở thành bất thiện nghiệp. Nói một lời hằn hộc, bực tức một điều gì cũng đều là những bất thiện nghiệp nho nhỏ chất chứa dần dần theo năm tháng. Nếu không có những thiện nghiệp lớn lao để hóa giải, chắc chắn bỏ thân này, chúng ta sẽ đi về một đời sống thấp kém khổ sở hơn. Ông triệu phú gia chủ không tích lũy thêm thiện nghiệp, ôm giữ ba nghiệp theo sự chi phối của tâm hà tiện bỏn xẻn, và kết quả là bị nung nấu ở địa ngục Mahàsoruva.

     
  12. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Tại sao luôn xảy ra chiến tranh trên thế giới?


    5 – PHÓNG SANH:
    Chuyện này được anh Trực Trí kể lại
    Anh là thầy thuốc đông y khá kinh nghiệm được giới thiệu đến một bà Thiên Chúa Giáo mang bệnh ung thư. Bệnh ung thư là một trong bốn chứng nan y của y thuật Trung Hoa. Bà bị mất ngủ liên tục và cơn đau đớn dày vò thân thể cả ngày đêm. Sau khi xem mạch để đánh giá bệnh tình anh dặn bà mua một số chim, cá, ốc, tất cả đều phải còn sống.
    Bà ngạc nhiên hỏi:
    – Tôi nghe nói thầy ăn chay trường, tại sao lại dùng những con vật đó làm thuốc.
    – Bà cứ mua về rồi biết.
    Khi đã mua về, anh bảo bà tự tay thả từng con chim lên trời, ốc thả xuống sông, và cùng với lời cầu nguyện hồi hướng công đức để giải trừ căn bệnh. Sau đợt phóng sanh đầu tiên bà bắt đầu ngủ được. Bà phấn khởi tiếp tục phóng sanh song song với uống thuốc thang do anh Trực Trí bốc, và cơn bệnh giảm dần.
    NHẬN XÉT:
    Câu chuyện nhỏ này không nói hết những kết quả tốt đẹp mà công đức phóng sanh đem đến cho những người thực hiện. Có rất nhiều người thực hiện công đức phóng sanh và đã cảm ứng được những kết quả phi thường. Do nghiệp sát sanh nên cảm quả báo bệnh hoạn, thì cũng do nghiệp phóng sanh để hóa giải bệnh hoạn. Điều này dễ hiểu, tuy nhiên những quả báo phụ bên cạnh quả báo hết bệnh đó là sự giàu có. Thường khi muốn thực hiện việc phóng sanh, người ấy phải dùng tiền mua chuộc sinh mạng của thú vật sắp bị giết thịt để đem thả. Tiêu tiền cho việc từ thiện thì tiền bạc sẽ được sung mãn trở lại, đó là điều tất nhiên. Giải phóng những thú vật bị giam cầm trong lồng chậu cũng hóa giải được nghiệp tù đày một phần. Có những người không có ác tâm, hiền lành, nhưng cũng có khi bị lưu giữ tù túng vì một lý do nào đó. Quả báo lúc này có thể xuất phát từ nghiệp hay nuôi chim trong lồng, nuôi cá trong chậu. Phóng sinh có nghĩa là cứu mạng cũng có nghĩa là trả lại tự do. Hai ý nghĩa này sẽ trở thành hai quả báo là mạng sống vững chắc và đời sống tự do.
    Trong lời nói của dân gian Việt Nam có thành ngữ "mạng lớn" là người thoát chết từ những tai nạn hiểm nghèo. Chiếc xe khách lật bên đường, hầu hết hành khàch đều bị tai nạn, duy có một người không chút hề hấn. Ông bà ta gọi người này "mạng lớn". Em tôi thuở mới lên 7 tuổi đã từng rớt từ độ cao bốn mét xuống nền xi măng. Sau khi đến bệnh viện khám xét, em tôi không bị một chút nội thương hay xây xát bên ngoài nào cả. Những sự thoát nạn lạ lùng này xuất phát từ công đức phóng sanh trong quá khứ.
    Tương tự như vấn đề mạng sống, có những người được trả tự do trong hoàn cảnh ngặt nghèo đáng lẽ phải bị giam cầm bắt bớ. Sự may mắn không thể suy luận được này cũng đều là quả báo của công đức phóng sanh.
    Lại nữa, sát sanh là nguyên nhân của chiến tranh tàn phá. Con người giết thú vật một cách si mê, đâu biết rằng niềm oán hận khó thể nào xóa bỏ. Đến khi thú hết tội thành người đó là lúc ân đền oán trả. Có những cuộc chiến tranh kỳ lạ, hai bên giết nhau như điên dại mà không bên nào có chính nghĩa. Những nhân vật lãnh tụ vừa thiên tài, vừa tham vọng đã xua quân đánh chiếm khắp nơi. Họ như là một trợ duyên trong hiện tại để con người trả thù với nhau, giải quyết nợ máu với nhau từ nhiều kiếp. Những người yêu chuộng hòa bình đã đấu tranh, đã kêu gọi. Người ta đã tốn khá nhiều thì giờ và bút mực để bàn luận những phương hướng tìm kiếm hòa bình. Nhưng cái gốc của chiến tranh chính là nghiệp sát sanh thì không ai đề cập đến. Ngày nào con người còn giết hại thú vật ngày đó còn những người mẹ gạt nước mắt tiễn con đi về chiến tuyến, còn những người vợ khóc lóc nghe tin chồng tử trận, còn những đứa con bơ vơ không biết cha là người nào... Chiến tranh không bao giờ được giải quyết ổn thỏa khi con người còn tạo nghiệp sát sinh, chỉ có dừng tay giết hại, chỉ có công đức phóng sanh mới là nền tảng chân thật của hòa bình thế giới.
    Người không có nghiệp sát sanh và thường hay phóng sanh sẽ được sống đời an ổn ở những vùng đất hòa bình. Có khi vì cộng nghiệp, họ cũng sinh trong một đất nước chiến tranh khói lửa, nhưng riêng khu vực họ cư ngụ, đại bác ít khi vang tiếng vọng về.
     
  13. MrKhang Thành Viên Cấp 4

    minh theo dõi máy bài viết của jimmy rat hay, ko biết bạn sưu tầm hay ban dc thầy bạn dạy bảo và kể lại cho bạn nghe, thực tình khi bạn đã nhọc công viết lên cho mọi người cùng đọc với sự hy vọng mong mọi ngừoi đọc và hiểu ,mình cũng hiểu dc tâm ý tốt đẹp của bạn, rất mong dc làm wen và giao lưu học hỏi ở bạn
     
  14. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Cảm ơn bạn MrKhang nhìu! Mình chỉ xin góp vui văn nghệ cùng cộng đòng 5giay nhà mình thui. Hì, rất mong mọi người ủng hộ và bỏ quá cho nếu có mắc lỗi gì. Chúc cho 5giay hoạt động bền vững và phát triển!
     
  15. bocap2duoi Thành Viên Cấp 5

    Khi mình gây ra một chuyện không tốt. Mình có thể chạy trốn được, nhưng lương tâm thì không bao giờ trốn được
     
  16. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    GIẾT HẠI.
    Đa số con người đều cho rằng giết người là tội ác lớn nhất trong các tội, thế nên tử hình là hình phạt cao nhất trong các hình phạt. Điều này khá đúng. Để được gọi là một sinh vật đúng nghĩa, loài đó phải có bản năng sinh tồn. Bản năng sinh tồn là sự thôi thúc bí mật khiến cho sinh vật đó luôn luôn muốn duy trì sự sống của mình. Nhìn sự lam lũ vất vã của đàn kiến tìm mồi, của con giun trườn trong lòng đất, chúng ta mới thấy loài vật đều thiết tha muốn sống. Nhìn những người nghèo khổ không mái nhà để ở, sống vất vưởng ở hè phố, chúng ta càng thấm thía ai cũng yêu cuộc sống. Sự sống là một cái gì quý giá vô cùng. Thế nên hành vi tước đoạt mạng sống của con người được xem là một tội ác nghiêm trọng.

    Theo ý nghĩa công bình, nếu một kẻ giết người, chắc chắn quả báo chờ đợi cho hắn là bị giết hại trở lại. Đôi khi luật pháp xã hội chỉ phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, nhưng luật Nghiệp Báo vẫn không dễ dàng tha thứ.

    Tuy nhiên, không phải luôn luôn nạn nhân ở đời này sẽ đích thân trả thù ở đời sau. Nếu trong khi bị giết, nạn nhân khởi niệm căm thù và muốn trả oán. Tư tưởng đó sẽ biến thành hành động, chắc chắn nạn nhân đời này sẽ trở thành thủ phạm ở đời sau.
    Trước kia ở Mỹ có một câu chuyện khó hiểu. Hai người bạn da đen và da trắng ở chung với nhau và rất thân tình. Một lần người bạn da đen cầm dao giết bạn mình rồi đến cảnh sát tự thú. Khi được hỏi động cơ giết bạn, anh đau khổ trả lời là không biết tại sao vì anh không có động cơ nào cả.
    Thật ra họ đã có mối thù sâu kín từ kiếp trước. Người bạn da đen đã khởi tư tưởng trả thù, rồi lại bỏ qua. Anh cứ ngỡ rằng nếu đã khởi ý mà không làm thì chẳng có ảnh hưởng gì. Nhưng ý tưởng đó đã biến thành hành động ở kiếp sau trong lúc không ai ngờ được.
    Chúng ta hãy cẩn thận với tư tưởng của mình, đừng cho rằng những ý tưởng, những tham muốn sẽ trôi qua mất. Không! Nó sẽ biến thành hành động ở đời sau khi nhân duyên đã đầy đủ.
    Còn trường hợp khi bị giết mà nạn nhân không có ý niệm trả thù bởi vì họ mãi lo nghĩ đến người thân, của cải... hoặc do họ đạt được hạnh nhẫn nhục cao độ, thì đời sau thủ phạm sẽ bị giết bởi một người khác, hoặc bị một tai nạn rủi ro như lật xe, rơi máy bay, sét đánh, cành cây khô rơi phải...
    Nếu kẻ đã giết người khá nhiều, quả báo dành cho hắn là thường xuyên bị giết hại ở nhiều kiếp về sau. Thậm chí chưa ra khỏi thai mẹ đã bị trục bị nạo bỏ rất nhiều lần.
    Chưa hết, khi giết một người chồng, tức là người vợ và người con sẽ bơ vơ, côi cút, nghèo khổ. Quả báo còn để dành cho tên sát nhân là đời đời sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khổ, lang thang ít học.
    Chưa hết, khi giết một người tức là làm đổ vỡ những sự nghiệp của người đó đang ôm ấp xây dựng. Quả báo dành cho tên sát nhân là thường xuyên gặp thất bại ở đời sau.
    Chưa hết, một người bị giết tức là rất nhiều người thân đau khổ. Quả báo dành cho tên sát nhân là thường xuyên rơi vào tâm trạng tuyệt vọng đau khổ giống như bị bệnh hoang tưởng tâm thần.
    Chúng ta thấy, một nghiệp nhân chính luôn luôn tạo ra chung quanh nhiều nghiệp nhân phụ. Luật Nghiệp Báo sẽ sắp xếp để kẻ phạm tội phải trả sòng phẳng mọi tội lỗi của hắn. Dĩ nhiên, việc đền trả tội lỗi này không dễ chịu chút nào.
    Tuy nhiên, không phải hễ giết người là tội bằng nhau. Tùy theo giá trị của người bị giết mà tội của kẻ sát nhân nhiều hay ít. Nếu người bị giết là một công dân lương thiện làm được nhiều điều tốt đẹp cho cuộc đời, thì sự giết hại một người như vậy tội rất nặng. Nếu sự có mặt của anh là niềm vui cho nhiều người thì sự vắng mặt của anh là nỗi khổ lớn lao. Giết người này tên sát nhân khó lường hết hậu quả phải gánh chịu ở đời sau.
    Nếu người bị giết là một vĩ nhân thánh thiện đã từng đem lợi ích lớn lao cho nhân loại. Sự ra đi của vị này là sự mất mát to lớn của thế giới. Quả báo mà thủ phạm phải đền trả là cực kỳ đau khổ. Hắn sẽ bị đày đọa hành hạ ở vô số kiếp, khi làm thú bị đánh đập giết hại, khi làm người bần tiện khốn cùng bị giết chết. Phải cộng nỗi đau khổ của mọi người lại để tính ra con số đau khổ mà hắn phải đền trả ở nhiều kiếp. Đó là sự công bình không thể thay thế.
    Ngược lại, một nhân viên trong đội săn bắt cướp đã bắn chết một tên cướp nguy hiểm đang gây án. Tên cướp đã từng giết người cướp của gây kinh hoàng cho mọi người. Cái chết của hắn làm cho mọi người thở phào nhẹ nhõm vui mừng. Giết tên cướp này, tội của người nhân viên không đáng kể, trái lại khi cộng tất cả niềm vui của mọi người, anh được một số phước kha khá. Đây là sự công bình không thể nói khác đi được.
    Rồi trường hợp người chiến sĩ chiến đấu ở tuyến đầu để bảo vệ sự bình yên cho người dân ở hậu phương được sống yên lành. Trong quá trình chiến đấu ngăn chận quân địch, sự bắn giết là điều không thể tránh khỏi. Nhưng cái tội đó có thể bù đắp bởi công lao đã giữ gìn cho rất nhiều người dân được yên ổn phía sau. Chỉ khi nào người chiến sĩ nằm trong một quân đội đi xâm lăng rõ rệt, tội của anh ta mới lớn.
    Như vậy tùy theo giá trị của người bị giết mà luận thành phước hay tội cho kẻ giết chứ không cố định một chiều.
    Thấp hơn con người là thú vật. Giết thú vật cũng là hành vi tước đoạt sự sống, thế nên trước hết nó cũng là một tội. Tuy nhiên tùy theo giá trị của con vật mà tội và phước sẽ được phân biệt cụ thể.
    Ví dụ người ta giết một con chó để lấy thịt đãi bạn bè. Cái phước ở đây là làm cho bạn bè một bữa ăn ngon miệng (nhưng nếu có uống rượu quậy phá thì tính sau), cái tội ở đây là giết một con vật trung thành và thông minh. Cái phước kia không bù nỗi cái tội này. Rồi cái đau khổ của con vật bị giết sẽ trở thành cái đau khổ của người giết ở mai sau.
    Trường hợp con người nuôi súc vật để chuyên lấy thịt như bò, heo, gà... cái phước ở đây là tạo ra thực phẩm cho con người.. Còn cái tội ở đây là sự giết hại mạng sống của con vật, gây đau khổ cho con vật khi mổ thịt, đồng thời thịt của súc vật cũng dễ gây bệnh cho người dùng như tim mạch, ung thư, nhiễm thú tính. Cái phước kia không bù nỗi cái tội này. Các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công thịt nhân tạo và nhiều xí nghiệp đã chế biến cung cấp cho nhà hàng. Đây là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa các nhà kinh tế cũng tính toán rằng để thu được một ký thịt, người ta phải cho con vật ăn một số ngũ cốc đủ cho nhiều người dân Phi Châu sống qua mấy ngày. Như vậy rõ ràng sử dụng thịt súc vật làm thực phẩm không có lợi cho con người bao nhiêu.
    Có một số người cho rằng người ăn chay cũng đã sát sinh vì cây cỏ, rau quả cũng có sự sống.
    Điều này đúng ! Cắt một ngọn rau cũng là xâm phạm đến sự sống của sinh vật. Chúng ta đã biết rằng thực vật cũng có bản năng sinh tồn, có vùng không gian tâm linh bao phủ, có phản ứng tâm linh đơn giản khi bị nguy hiểm... nói chung cây cỏ dường như cũng có tâm hồn. Tuy nhiên, cấu trúc tâm linh của cây cỏ thì đơn giản. Khi bị cắt tỉa, cây cỏ có “biết” mình bị cắt tỉa, có phản ứng, nhưng không có cảm giác đau đớn. Thế nên khi cắt cây, tỉa cành, hái rau, chúng ta có phạm tội nhưng không nhiều, vì cây cỏ không đau đớn. Tuy nhiên, một người suốt đời ăn chay, tiêu thụ rất nhiều rau quả, cộng lại cũng thành một số nghiệp kha khá. Nhưng người này thường tu hành làm việc phước thiện, giáo hóa đạo đức... như vậy cái phước này quá dư để bù lại cái tội kia.
    Những tiều phu chuyên vào rừng đốn cây, mặc dù có phước là làm ra gỗ ván, chất đốt cho xã hội, nhưng đã gây nạn phá rừng làm xáo trộn sinh thái Địa cầu, tước đoạt đời sống của cây lớn, nên tích lũy thành tội cũng nặng. Cây càng lâu năm có năng lực tâm linh càng mạnh. Có những cây sao lâu năm - mấy trăm năm mọc ven đình chùa, có năng lực tâm linh rất mạnh. Khi có người đến muốn đốn, phản ứng tâm linh của cây đủ sức làm người kia mang bệnh rồi chết. Người dân không hiểu điều này đã gán cho có thần linh ở trên cây. Ông bà ta có câu:

    Nhất phá sơn lâm

    Nhì đâm hà bá.”

    Hai nghề này không bao giờ khá giả. Người làm nghề này luôn luôn cực nhọc vất vả suốt đời mà không bao giờ có dư. Có lẽ do quả báo sát sinh nhiều quá. Tùy mỗi loại cây, tùy theo tuổi cây mà phản ứng tâm linh của cây khác nhau. Với chiếc lá của Backster thì phản ứng chỉ đủ làm cho kim của đồng hồ đo nhảy. Nhưng phản ứng tâm linh của một cây cổ thụ có thể gây chết người tức khắc khi người đó muốn đốn nó.

    Như vậy, nếu đốn cây là một tội nặng thì việc trồng cây, bảo vệ rừng là một phước lớn. Mỗi cây trồng được xem như một tế bào phổi cho toàn hành tinh của chúng ta. Toàn bộ cây trồng, cây rừng hợp thành một bộ phổi cho cả thế giới. Cây lọc không khí, hấp thu bớt nhiệt độ, giữ độ ẩm lâu dài cho đất, giữ mạch nước vào mùa nắng, cản lũ lụt vào mùa mưa, tạo thức ăn cho ong và các thú vật hoang dã, cân bằng sinh thái của toàn cầu...
    Tuy nhiên, vì nhu cầu sử dụng gỗ ván và chất đốt, con người đang tàn phá rừng không thương tiếc. Mặc dù các quốc gia kêu gọi phát triển trồng rừng, nhưng việc trồng rừng không đáp ứng kinh tế cấp bách cho con người, đồng thời những khu rừng nhân tạo không thể sánh bằng các khu rừng thiên nhiên cả nghìn năm, hơn nữa, đa số người trồng rừng đã chuẩn bị đốn khai thác sau mười hoặc hai mươi năm trồng.
    Rừng, một bài toán nan giải!
     
  17. nguyenvietnamvn Server-Workstation

    cái này thì mình tin
     
  18. robocop Thành Viên Cấp 1

    Bạn đã gieo nghiệp thiện rồi đó, nếu có dù chỉ 1 người học được điều gì từ những bài bạn post thì phước đức ấy thật vô lượng.
    Cám ơn bạn nhiều.
     
  19. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    Phước và Đức



    Thông thường người ta sử dụng chung hai chữ phước và đức. Tuy nhiên hai từ này có nghĩa khác nhau.
    Khi chúng ta làm lợi ích cho người khác, sau này chúng ta sẽ hưởng được một hay nhiều niềm vui. Một nghiệp thiện sắp sẵn một quả báo lành ở vị lai. Đối với Bản Thể thì nghiệp nhân vừa tạo xong thì quả báo cũng đã xuất hiện. Song trên không gian vật lý, thời gian để cho từ một nhân đi đến một quả khá lâu. Người ta cho rằng khi nghiệp thiện vừa tạo xong thì phước xuất hiện trong vô hình để giữ gìn cho quả báo không bị mất. Phước được ví dụ với tấm ngân phiếu. Tiền gửi ngân hàng càng nhiều thì tấm ngân phiếu càng có giá trị lớn. Tác thiện càng nhiều thì phước càng sâu dày. Người đã từng làm nhiều lợi ích cho mọi người thì người ta nói kẻ đó có phước.
    Đến khi duyên đã đủ lập tức phước hiện thành quả báo lành khiến cho kẻ đó được hưởng nhiều vui sướng. Quan điểm này là do đứng trên lập trường không gian vật lý mà có, chứ đối với Bản Thể, toàn bộ quả báo ở vị lai đã được sắp sẵn. Mỗi quả báo đều đã được ấn định một thời điểm để xuất hiện.
    Tuy nhiên, chúng ta cũng cứ cho rằng người đã làm nhiều việc thiện, đã làm lợi ích cho nhiều mọi người tức là người có nhiều phước.
    Như vậy, PHƯỚC là do làm lợi ích mọi người mà có.
    Còn Đức là cái tốt của tự tâm.


    Ví dụ, một người siêng năng thanh lọc tư tưởng của mình, giữ gìn giới cấm kỹ lưỡng, tu tập thiền định trí tuệ, từ tâm thương yêu mọi người. Người như vậy được gọi là người có ĐỨC. Nhưng đức chưa phải là phước !


    Chỉ khi nào người này ra tay giúp đỡ kẻ khác, giáo hóa đạo đức cho mọi người, truyền đạt phương pháp tu tập thiền định... lúc đó người này mới có phước.


    Bản thân mình tốt gọi là đức.


    Làm lợi cho người gọi là phước.

    Có những trường hợp vì muốn được nổi danh, vài nhà giàu có đã bố thí những số tiền lớn cho các cuộc lạc quyên cứu trợ. Một vài công ty làm việc thiện để góp phần quảng cáo. Vì thâm ý của họ không tốt, chỉ có mục đích cá nhân nên họ chỉ có phước mà không có đức.
    Ngược lại, một vài nhà tu hành thanh lọc nội tâm trắng như tuyết, ẩn cư nơi vắng vẻ, ít giao tiếp với mọi người. Vị này có đức mà không có phước.

    Theo truyền thuyết của Thiền tông Trung Hoa, khi Lương Võ Đế khoe đã cất chùa, độ tăng rất nhiều, Tổ Đạt Ma đã khẳng định hoàn toàn không có công đức. Về sau Tổ Huệ Năng giải thích rằng chỉ được gọi là công đức khi đã giác ngộ tự tánh thanh tịnh.

    Thật ra người có nội tâm trong sạch cao thượng cũng đã có một phần phước vì tư tưởng lành của tâm luôn luôn lan tỏa trong không gian và lây nhiễm âm thầm vào tâm hồn của mọi người. Ngay cả những thiền sư đạt đạo, tâm không khởi niệm thiện cũng vẫn có tâm lành lan tỏa xung quanh. Dù ngài không cố ý khởi tư tưởng thiện nhưng chính nội tâm thanh thản, vô ngã, từ bi vẫn gây ảnh hưởng rất nhiều. Song cái phước này không lớn lắm vì không có tác dụng cụ thể, rõ ràng và mạnh mẽ.
    Người hiểu đạo thấu đáo cần phải biết chiêu tập đầy đủ cả phước lẫn đức. Bởi vì đức và phước hổ trợ lẫn cho nhau. Tâm có tốt thì việc làm thiện mới chu đáo và lâu bền. Đức có sâu thì phước mới lớn. ngược lại, trong khi làm việc thiện, chúng ta củng cố thêm chất tốt của nội tâm mình. Hơn nữa, nếu có một kẻ làm phước mà không có đức, làm việc thiện vì mục đích vị kỷ, chắc chắn sẽ có lúc làm việc ác vì tư tưởng nào cũng có ngày khởi ra hành động. Phước sẽ bị hạn chế không thể phát triển đến vô cùng tận.

    Và bậc chân tu cũng phải phát tâm làm lợi ích cho mọi người bởi vì hai lý do:


    Thứ nhất, do làm lợi ích mọi người nên vị này có đủ phước để được no đủ vật thực và hoàn cảnh yên ổn để tiến tu thiền định nội tâm.


    Thứ hai, chỉ bởi việc quên mình lo cho mọi người mới giúp cho ngã chấp mau tan vỡ hơn. Với nữa, một người được gọi là vô ngã khi người đó hoàn toàn vị tha.


    Chúng ta không nên quá thiên về làm phước mà quên đi trau dồi Đạo Đức sâu thẳm bên trong, cũng không nên quá thiên về Đức tốt của tự tâm để quên đi việc làm lợi ích cho mọi người bên ngoài.

     
  20. jimmy_vnu Thành Viên Cấp 5

    BỒ TÁT TẠO CƠ HỘI CHO CHÚNG SINH TẠO PHƯỚC.
    (Trích Từ Bi Thủy Sám, tựa)
    Thuở xưa về triều Vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt. Ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất kinh sư trong một ngôi chùa. Nhà sư ấy mắc bệnh cùi, ai cũng ghê tởm lánh xa, chỉ có ngài Tri Huyền khởi lòng thương cảm đến chăm sóc hầu hạ tận tình. Đến lúc nhà sư sắp ra đi mới dặn Tri Huyền rằng:
    – Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm ta, và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ ta trú ngụ.
    Sau đó ngài Ngộ Đạt cũng dời đến chùa An Quốc thì Đạo Đức của Ngài vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành đến Pháp Tịch nghe Ngài giảng đạo và phong làm quốc sư. Vua dâng cúng Ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương. Một hôm ngài ngồi một mình trên chiếc tọa ấy, tâm khởi niệm mãn nguyện hài lòng trước sự thành đạt của mình, hốt nhiên Ngài nghe đau nhói tột độ nơi đầu gối muốn xỉu. Khi xem lại thì đầu gối xuất hiện một mụt ghẻ mặt người. Nỗi đau hoành hành Ngài vô tận mà không một danh y nào chữa nổi. Ngài chợt nhớ lời căn dặn năm xưa của vị sư nên sắm sửa đi về Tây Thục.
    Trên đường đi trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mờ Ngài nhìn xem bốn phía bỗng thấy dạng hai cây tùng. Ngài mới tin rằng lời ước hẹn không sai. Ngài liền đi ngay đến chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa, nhà sư đang đứng chờ đón Ngài một cách thân mật.
    Ở lại đêm, Ngài Ngộ Đạt mở tỏ hết tâm sự đau khổ của mình. Nhà sư nói:
    – Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa, mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
    Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn Ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụt ghẻ kêu lên:
    – Đừng rửa vội! Ông học nhiều biết rộng, đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Án, Triệu Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
    Kinh ngạc vô cùng, Ngài đáp:
    – Tôi có đọc.
    – Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Án giết Triệu Thố! Triệu Thố bị chém ở chợ phía đông oan ức biết dường nào! Viên Án là ông. Triệu Thố là tôi. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao Tăng, giới luật tinh nghiêm nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù ông được. Nay nhờ tôn giả Ca Nhã Ca lấy nước pháp tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
    Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa. Nước vừa chạm vào thì cơn đau xảy ra kịch liệt Ngài bất tỉnh hồi lâu. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Ngài mới biết thánh hiền ẩn dấu Bồ Tát thị hiện, kẻ phàm phu không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó lại thì điện các uy nghi đã biến mất tự bao giờ. Ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo đời Nhà Tống mới sắc hiệu là “Chí Đức Thiền Tự” có một vị cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.
    NHẬN XÉT:
    Chẳng biết có ai đọc truyện Tây Hán ra sao còn tôi không có đọc được cốt truyện ấy nên không rõ hết sự tình, chỉ theo chỗ dẫn trên để hiểu rằng Viên Án đã âm mưu giết Triệu Thố một cách rất oan ức. Lẽ ra Ngài Ngộ Đạt sẽ đền trả tội nghiệp này một cách đau đớn ở địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh. Nếu Ngài không có công đức lớn lao trong Phật Pháp. Ở đây ta thấy công lao tu hành chân chính của một người đã hóa giải khá nhiều trọng tội của họ. Sau đời giết oan Triệu Thố, Viên Án liên tiếp mười đời làm cao tăng trì giới nghiêm chỉnh. Không thể có sự kiện này nếu nhiều đời trước nữa Viên Án không từng kết duyên tu tập sâu dày trong Phật Pháp. Công đức trước và sau sự kiện Triệu Thố, Viên Án đã cảm ứng được sự cứu độ của Bồ Tát. Vị Bồ Tát xuất hiện ở đây chính miệng mụn ghẻ cho biết là tôn giả Ca Nhã Ca. Tôn giả Ca Nhã Ca là ai, chúng ta cũng không biết rõ ràng, chỉ chiêm ngưỡng phương tiện thiện xảo của tôn giả nơi câu chuyện này. Và tại sao Triệu Thố biết được điều này, lại nói rằng tôn giả đã giải oan cho ông rồi? Sự liên hệ riêng giữa tôn giả Ca Nhã Ca và Triệu Thố còn nằm trong bí mật. Chỉ có sự liên hệ giữa tôn giả Ca Nhã Ca và Ngài Ngộ Đạt được biểu hiện cụ thể nơi đây.
    Thuở còn là sai di, Ngài Ngộ Đạt nổi tiếng thần đồng, đã từng đăng đàn thuyết pháp cho tăng chúng tỳ kheo. Ngài được Lý Thương Ẩn đề thơ khen tặng.
    Sa Di mười bốn giỏi giảng kinh
    Tuổi nhỏ như ông chỉ cầm bình
    Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
    Chẳng bởi tuổi cao, trọng tánh linh

    (Thập Tứ Sa Di năng giảng kinh
    Tợ sư niên kỷ chỉ huề bình
    Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
    Bất tại niên cao tại tánh linh)

    Nhưng chẳng những Ngài thông minh trí tuệ thôi mà đức hạnh cũng rất chu toàn đặc biệt. Nhà sư bịnh cùi bị mọi người ghê tởm xa lánh, thế mà Ngài lại ân cần chăm sóc trị liệu chu đáo. Không ngờ Ngài đã tác thành phước duyên to lớn là hầu hạ một bậc Bồ Tát siêu phàm. Chính tôn giả cố ý thị hiện bệnh nặng để tạo cơ hội cho Ngộ Đạt làm phước. Và rồi chính phước nghiệp đó sẽ hóa giải oan ức về sau mà tôn giả biết trước Ngộ Đạt không thể nào vượt qua nổi. Tôn giả là người chứng ngộ, thấu suốt đường đi phức tạp của Nhân Quả Nghiệp báo nên không dùng thần thông phép lạ để chận đứng Nghiệp báo của Ngộ Đạt. Tôn giả chỉ dùng thần thông tạo cơ hội cho Ngộ Đạt tác phước và có lẽ trong cõi giới khác đã khuyên bảo Triệu Thố khá nhiều.
    Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sinh không chỉ bằng cách đem tài vật bố thí cho họ, mà phải biết tạo điều kiện cho họ tác phước, sự thọ nhận tài vật giúp họ qua cơn thiếu thốn nhất thời nhưng lại tiếp tục tổn phước về sau. Còn sự chịu khó tạo phước mới đem lại cho họ an vui lâu dài. Những khi Bồ tát ra đời làm vua, quan, hướng dẫn sư... đều dùng uy lực của mình khuyên bảo nhân dân tu hành thập thiện, khuyên họ vui vẻ cùng nhau đắp đường, sửa đê, đào kinh, cất trường học, mở bệnh viện, trồng rừng... Những công trình phúc lợi công cộng là cơ hội để nhiều người tạo phước. Nó khác với những công trình bắt dân xu dịch khổ sở để kiến tạo điện đài cho tập đoàn thống trị phong kiến. Nếu chúng ta có tâm từ ái với chúng sinh nào, hãy khéo léo tạo điều kiện cho chính họ tác phước. Điều kiện đó là những lời khuyên bảo ân cần, là ý kiến chỉ vẻ phương pháp, là phương tiện tài vật cụ thể. Ví như ta khuyên họ hãy đắp lại đoạn đường trong làng, ta sẽ bảo họ cố gắng lên, chỉ họ cách thức tu sửa đường sá, cấp cho họ thức ăn và dụng cụ. Làm được điều này, họ sẽ bớt khổ về sau.
    Chúng ta cũng thấy công đức trì giới tinh nghiêm có năng lực chận đứng nghiệp lực quá khứ. Mười đời làm cao tăng khiến cho oan hồn Triệu Thố không có cơ hội đột nhập phá tán Viên Án. Nếu chúng ta phát tâm tu hành chân chính, trì giới cẩn trọng, Thiền Định chuyên cần thì những nghiệp lực cũ bị chận lại. Nhờ vậy chúng ta được yên ổn thuận tiện tiến tu đạo nghiệp cho đến viên mãn. Tới khi đạo nghiệp viên thành, quả báo cũ xuất hiện, chúng ta không cảm thấy đau khổ.
    Chỉ vì niệm tự mãn bất ngờ khởi lên không kiểm soát được, uy đức bị khiếm khuyết, ác nghiệp xưa mới có cơ hội làm thành mụt ghẻ mặt người gây ra đau đớn. Vì vậy, người phát tâm tu hành cần phải giữ gìn chánh niệm trong từng phút giây miên mật, kiểm soát đừng để ác niệm, tà niệm xen vào làm tổn thương uy đức. Nhưng ngài Ngộ Đạt có công đức quá khứ giữ gìn nên oan hồn Triệu Thố không xâm nhập vào trong tư tưởng để gây thành đồng cốt điên loạn, chỉ biểu lộ nơi cơ thể, dưới đầu gối làm thành mụn ghẻ đau đớn mà thôi! Có những người thiếu công đức quá khứ, chê bai thánh hiền, đã từng dùng bùa chú hại người, đời này những oan trái xưa trổ quả, thường báo ứng vào tư tưởng để sai sử làm thác loạn mê mờ.
    Tôn giả Ca Nhã Ca thấy trước cái lúc vinh quang trong đời Ngộ Đạt và biết cơ hội cho nghiệp cũ sẽ đến nên đã ân cần dặn dò mọi điều. Khi nạn xảy ra, Ngộ Đạt tìm đến nơi hẹn ước thì trông thấy cảnh chùa viện nguy nga, lầu vàng điện ngọc, ánh sáng chói lọi giao xen rực rỡ. Sáng hôm sau khi bệnh được chữa xong, thì tất cả biến mất, chỉ còn lại núi rừng tĩnh mịch hoang vu như thuở nào.
    Do công đức vĩ đại từ nhiều kiếp, một vị Bồ tát được tùy nguyện tạo thành những Tịnh độ theo ý muốn để giáo hóa chúng sinh. Tôn giả Ca Nhã Ca đã thị hiện một chút Tịnh độ của mình qua một đêm làm chỗ trú ngụ cho Ngộ Đạt và cũng để an ủi gây thêm niềm tin sức mạnh cho Ngài. Khi công việc đã xong, Tôn giả thâu hồi thần lực, trả lại núi rừng cảnh cũ người xưa. Tịnh độ không phải là cứu cánh của chư Phật. Nó chỉ là huyễn cảnh được dựng nên tạm thời để giáo hóa chúng sinh. Cứu cánh mà chư Phật, chư Bồ tát nhắm đến là làm sao cho chúng sinh thành tựu giới định huệ giải thoát. Còn tịnh độ chỉ là việc bên ngoài không chân thật. Nếu chúng sinh ngay nơi tự tâm được thanh tịnh giải thoát thì Tịnh độ là thừa.
     

Chia sẻ trang này