Tìm kiếm bài viết theo id

Tiếp chủ đề các vụ án nổi tiến trong lịch sử Việt Nam !

Thảo luận trong 'Chuyện trò' bắt đầu bởi uzza, 28/5/09.

ID Topic : 951369
Ngày đăng:
28/5/09 lúc 14:39
  1. uzza Thành Viên Cấp 4

    Tham gia ngày:
    5/12/07
    Tuổi tham gia:
    16
    Bài viết:
    1,300
    [FONT=Arial, Helvetica, sans-serif]....ssưu tầmm....

    Vụ án Trần Nguyên Hãn.

    Trần Nguyên Hãn (?-1429) là võ tướng trong khởi nghĩa Lam Sơn, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đánh thắng quân Minh xâm lược và lập thành nhà Hậu Lê. Ông cũng là một trong những công thần phải chịu cái chết bi thảm ở triều vua Lê Thái Tổ.
    Tiếp chủ đề các vụ án nổi tiến trong lịch sử Việt Nam !
    Tượng đài Trần Nguyên Hãn tại chợ Bến Thành, thành phố Hồ Chí Minh

    Năm 1429, Trần Nguyên Hãn xin về trí sĩ. Từ trước đó, Nguyên Hãn có nói riêng với người thân cận:
    “ Nhà vua có tướng như Việt vương Câu Tiễn, cho nên, ta không thể yên hưởng vui sướng được. ”
    (Câu Tiễn có tướng cổ dài, mép quạ, tức là tướng chim. Có thuyết cho rằng Trần Nguyên Hãn trực tiếp nói câu này với Nguyễn Trãi.)
    Lê Lợi y cho Nguyên Hãn được về, nhưng dặn rằng cứ một năm hai lần lại vào triều chầu vua. Trần Nguyên Hãn “thập đạo kinh luân mao ức lý, nhân cựu trạch tử miếu” (sau mười năm chiến chinh, quay về ngôi nhà cũ). Ở đây , ông cho dựng phủ đệ lớn, đóng thuyền to. Việc này bị quy kết là lộng hành và có âm mưu thoán nghịch. Những kẻ không ưa cũng thừa cơ buông lời xúi bẩy. Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi ra lệnh bắt về triều để xét hỏi. Tới bến Sơn Đông, ông tự trầm mình mà chết. Trước khi chết, ông nói :
    “ ...Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân, nay sự nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm mà hại tôi. Hoàng thiên có biết không?

    Tháng 5 năm đó, Lê Lợi mới tiến hành ban thưởng tước hầu cho các công thần tham gia khởi nghĩa. Như vậy Trần Nguyên Hãn chưa kịp nhận phong thưởng của một chiến tướng khó nhọc đã bị vua hãm hại.

    Quanh cái chết của Trần Nguyên Hãn, không chị riêng vợ con ông chịu dính líu mà các tướng như Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái cũng bị liên lụy. Hai tướng này bị cho là vây cánh của Trần Nguyên Hãn và bị dẹp.
    Năm 1455 , vua Lê Nhân Tông (1443-1459) ra lệnh phục chức cho Trần Nguyên Hãn, truy phong là "Phúc thần", cho gọi con cháu ra làm quan, nhưng không ai ra.
    Đời nhà Mạc, ông được truy phong là Tả tướng quốc, Trung liệt Đại vương. Ông chính là trường hợp rất hiếm trong các công thần khai quốc nhà Lê được nhà Mạc thù địch tưởng nhớ và truy phong, có lẽ một phần lý do vì bản ý nhà Mạc muốn thu phục lòng người. Việc tôn vinh ông khiến "thiên hạ" thấy sự khắc bạc của nhà Lê với người có công trạng.
    [sửa] Nguyên nhân
    Cái chết của Trần Nguyên Hãn được nhận định là do một hoặc nhiều nguyên nhân:
    • Ông nằm trong vòng xoáy tranh giành quyền lực trong triều đình nhà Lê thời hậu chiến. Có ý kiến cho rằng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo ủng hộ Lê Tư Tề, con trưởng của Lê Lợi trong khi Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn... ủng hộ người con thứ là Nguyên Long. Khi phái Lê Sát thắng thế và Lê Tư Tề bị ruồng bỏ, thì ông cũng không tránh khỏi hậu họa là chuyện thường.
    • Mối nghi ngại của Lê Lợi đối với triều đại cũ: Lê Lợi từng hại Trần Cảo – người tự nhận là tôn thất nhà Trần, từng được đưa lên nắm ngôi Hoàng đế bù nhìn, từng lấy lý do mẹ của thái tử Nguyên Long có tên là Phạm Thị Ngọc Trần và ép người có họ Trần phải đổi sang họ Trình để kiêng huý. Những hành động đó đều nhằm khiến thiên hạ có thể "quên " hẳn nhà Trần đi. Mà Trần Nguyên Hãn lại xuất thân là quý tộc nhà Trần, con cháu của hai danh thần nhiều danh vị của triều cũ là Trần Quang Khải và Trần Nguyên Đán.
    Mặc dù được nhiều sử gia cũng như người có quan tâm thừa nhận rộng rãi, nhưng cho tới giờ, những giả thiết và nguyên nhân trên không được hậu thuẫn bởi những bằng chứng trong chính sử.
    -Lời bình của Trần Quốc Vượng
    “ ...Phạm Lãi... đi biệt, đổi tên họ, dẫn theo người đẹp [Tây Thi]... bỏ hoàn toàn ham muốn quyền lực.
    Nên vua dù có biết (mà biết thực, nên mới cho ghi vào sử), cũng nghĩ ông này bây giờ ... không dòm ngó gì tới ngôi báu.
    Đàng này...
    ...Nguyên Hãn lại “dại dột“ làm nhiều nhà cửa, xây bằng gạch hoa (a, có vẻ như xây biệt đô, biệt cung), thuần phục và tậu voi tậu trâu từng đàn đi lại rầm rập, lại “đóng thuyền, chở binh khí“ nữa, ra cái dáng “sứ quân“, “nghênh ngang một cõi“.
    Thế thì chưa biết “động cơ chủ quan“ như thế nào, chứ như thế thì bịt sao nổi miệng thế xầm xì phao tin đồn (cơ chế của tin đồn là mối quan tâm tới một sự kiện nhưng thiếu thông tin về sự kiện đó). Người ta vu cho ông làm phản. Và ông bị giết hại (hay bị “bức tử“, “tự sát“, hay là “chết đuối“…thì cũng vậy thôi) là phải.


    [/FONT][FONT=Arial, Helvetica, sans-serif]Vụ án Lê Văn Duyệt

    1. Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi – Con nuôi của Lê Văn Duyệt.

    Năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) bắt đầu thi hành chính sách trung ương tập quyền, cải tổ nền hành chánh do vua Gia Long (trị vì 1802- 1819) đặt ra trước đây , bỏ chức tổng trấn Bắc thành (đại diện vua trông coi các tỉnh Bắc Kỳ) và Gia Định thành (đại diện vua trông coi các tỉnh Nam Kỳ) , đổi trấn làm tỉnh, đặt chức tổng đốc, tuần vũ, bố chính sứ, án sát sứ và lãnh binh để cai trị các tỉnh, đồng thời đặt tất cả các tỉnh trực thuộc chính quyền trung ương. Chức tổng trấn Gia Định thành được chính thức bãi bỏ sau khi vị tổng trấn cuối cùng là Lê Văn Duyệt từ trần ngày 30-7 Nhâm Thìn (25-8-1832). Cũng trong năm nầy, vua Minh Mạng sai đổi tên Quy Thành ra Phiên An Thành, còn được đọc là thành Phan Yên. Tỉnh Phan Yên (hay Phiên An tức tỉnh Gia Định) do Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát.

    Theo chính sử nhà Nguyễn, Bạch Xuân Nguyên là một vị quan tham lam tàn ác. Khi đến nhậm chức bố chính sứ ở Phan Yên, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ của triều đình truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, trị tội những người tôi thuộc dưới quyền Lê Văn Duyệt khi ông làm tổng trấn. Theo tác giả Trương Vĩnh Ký, khi Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành, viên quan Huỳnh Công Lý có con gái hầu vua Minh Mạng. Lý ỷ thế con gái, làm nhiều điều trái ngược và xúc phạm cả cô hầu của Lê Văn Duyệt. ông Duyệt trình tâu sự việc Lên vua Minh Mạng. Nhà vua có ý bao che, ra lệnh giải Lý ra Huế xét xử. Lê Văn Duyệt lại dùng "Thượng Phương Kiếm" là kiếm vua ban cho được quyền "tiền trảm hậu tấu"chém trước tâu sau), chém Huỳnh Công Lý, rồi cho ướp muối thủ cấp họ Huỳnh gởi ra kinh đô, trên nắp thùng đề dòng chữ: “Phụng thừa thánh chỉ, xử trảm tội nhân ". Trước sự đã rồi, vua Minh Mạng đành bỏ qua. Nay dựa vào chuyện nầy, Bạch Xuân Nguyên cho rằng Lê Văn Duyệt phạm tội khi quân. Bạch Xuân Nguyên còn cho rằng Lê Văn Duyệt đồng lõa với phó vệ uý Lê Văn Khôi khai thác trái phép rừng cây, nên giáng chức Khôi, và muốn gởi Khôi ra Huế để triều đình xét nghị.

    Ông Khôi nguyên tên là Nguyễn Hữu Khôi , là một thổ mục Cao Bằng, phạm tội chống chính quyền sở tại, bỏ trốn vào Thanh Hóa. Khi Lê Văn Duyệt làm kinh lược Thanh Nghệ năm Kỷ Mão (1819), ông Khôi ra đầu thú. Lê Văn Duyệt tin dùng ông Khôi, đổi tên là Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi theo dưới trướng Lê Văn Duyệt, vào Gia Định thành, làm đến phó vệ uý Minh Nghĩa vệ. Nay Lê Văn Khôi vừa lo chuyện Bạch Xuân Nguyên truy cứu việc Lê Văn Duyệt, vừa lo lộ chuyện tự thân ông đã từng phạm lỗi ở Cao Bằng, nên quyết định nổi dậy.

    Đêm 18 tháng năm, năm Quý Tỵ (5-7-1833), Lê Văn Khôi cùng với 27 người lính thuộc nhóm hồi lương, tấn công dinh bố chánh sứ, giết Bạch Xuân Nguyên. Nghe có nội biến, tổng đốc Nguyễn Văn Quế vội vàng tìm cách trấn áp, cũng bị giết luôn. Án sát sứ và viên lãnh binh chạy thoát. Lê Văn Khôi chiếm thành. Quân sĩ đều về theo họ Lê, trong đó có một người con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hán. Lê Văn Khôi tự xưng là Đại nguyên suý, tổ chức cầm quyền như một triều đình riêng, rồi sai quân đánh lấy hết các tỉnh (Nam Kỳ) thuộc Gia Định thành trước đây.

    Được tin cấp báo, triều đình cử Tống Phúc Lương, Phan Văn Thúy, Nguyễn Xuân, Trương Minh Giảng, Trần Văn Năng đem quân thủy bộ và cả tượng binh vào đánh Lê Văn Khôi, chiếm lại các tỉnh. Lê văn Khôi rút vào thành Phan Yên (Phiên An), đóng cửa chống giữ, và sai người cầu cứu Xiêm La (Thái Lan). Quân triều đình một mặt đánh đuổi quân Xiêm, một mặt vây chặt thành Phan Yên. Thành nầy do Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long) ra lệnh xây năm Canh Tuất (1790), được gọi là Quy thành (thành Rùa) hay Gia Định kinh, và được Lê Văn Duyệt gia cố năm Canh Dần (1830) , cho nối vách thành lên cao khoảng 0,5 m so với thành cũ, và dùng toàn đá ong rất chắc chắn.

    Quân triều đình vây đánh thành Phan Yên nhiều lần không thành công. Cuối năm Giáp Thìn (1834), Lê Văn Khôi bị bịnh từ trần, mà mãi đến tháng 7 năm Ất Tỵ (1835) quân triều mới hạ được thành, vào bắt và giết tất cả 1.137 người, đem chôn vào một chỗ gọi là 'mả biền tru',trên xây một trụ đề "Ngụy tặc nhứt võng trinh tru " (quân loạn bắt chung một lưới bị giết hết) thường được gọi là "mả ngụy". Ngoài ra, còn có sáu người bị bắt, và bị đóng cũi giải về kinh đô Huế, trong đó có một linh mục người Pháp tên là Marchand (có tên Việt là cố Du), hai người Trung Hoa tên Mạch Tấn Giai, Lưu Hằng Tín, và một người con của Lê Văn Khôi mới bảy tuổi tên Lê Văn Viên. Khi đến Huế, tất cả sáu người đều bị xử lăng trì.

    Vua Minh Mạng ra lệnh san phẳng thành Phiên An tức Quy Thành vì nhà vua sợ rằng thành trì kiên cố có thể là căn cứ cho một cuộc nổi dậy khác tái diễn. Năm sau, nhà vua lại ra lệnh xây một thành Sài Côn mới gọi là Phụng thành, hơi lệch về hướng đông bắc của Quy Thành, tại làng Nghĩa Hòa, huyện Bình Dương lúc ấy. Trong khi đó, triều đình bắt đầu nghị xét vụ án Lê Văn Duyệt.
    2. Hành trạng ông Lê Văn Duyệt
    Tiếp chủ đề các vụ án nổi tiến trong lịch sử Việt Nam ! - 1
    Lê Văn Duyệt trên mặt trước tờ 100 đồng in năm 1966 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

    Nguyên quán gia đình Lê Văn Duyệt ở phủ Quảng Nghĩa (lúc đó thuộc dinh Quảng Nam). Phụ thân ông là Lê Văn Toại dời vào Định Tường, sinh được bốn trai. ông Duyệt là con trưởng, sinh năm Giáp Dần (1764), bẩm sinh khuyết tật bộ phận sinh dục, người thấp nhỏ, thông minh, nhưng nóng nảy. Năm canh tý (1780), Lê Văn Duyệt được tuyển dụng làm thái giám trong dinh chúa Nguyễn, phụ trách việc nội đình, rất đắc lực, nên dần dần lên đứng đầu hai đội thuộc nội. Lê Văn Duyệt theo sát bước đường bôn tẩu của Nguyễn Phúc Ánh, kể cả hai lần chạy sang Xiêm La (Thái Lan) vào các năm 1784 và 1785. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm hẳn được Sài Côn và toàn vùng Gia Định năm Kỷ Dậu (1789), nhà chúa cho Lê Văn Duyệt chiêu tập mộ binh, thuộc tả quân. Từ đó, Duyệt tham gia những cuộc hành quân chống Tây Sơn, bắt đầu nổi tiếng trong trận giải vây Diên Khánh năm ất mão (1795). Ngôi sao Lê Văn Duyệt dần dần sáng chói, và rực rỡ nhất trong trận đánh đến sạch tan tành lực lượng hải quân của Tây Sơn tại cửa Thị Nại (Quy Nhơn) năm Tân Tậu (1801). Trận đánh nầy được chính sử nhà Nguyễn gọi là "trung hưng đệ nhất võ công" (Võ công oanh liệt nhất của công cuộc trung hưng nhà Nguyễn), và người chiếm công đầu, can đảm liều lĩnh thực hiện trận hỏa công nầy, chỉ biết tiến chứ không chịu lùi là Lê Văn Duyệt. Sau trận nầy, Nguyễn Văn Thành ở lại cầm chân các tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng (đang vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tòng Châu giữ); chúa Nguyễn dẫn quân ra đánh Phú Xuân, sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đi trước. Cả hai hợp lực đánh hạ Phú Xuân nhanh chóng. Vua Cảnh Thịnh (nhà Tây Sơn) phải bỏ chạy ra Bắc hà. Ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Tậu (1801), Nguyễn Phúc Ánh ngược dòng sông Hương, trở về tái chiếm thành Phú Xuân.

    Sau mặt trận Phú Xuân, một mặt chúa Nguyễn gởi quân truy đuổi vua Cảnh Thịnh, một mặt gởi các tướng Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Nguyễn Văn Thành quay vào giải vây Quy Nhơn, nhưng đã trễ vì Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trong thành Quy Nhơn biết không chống cự nổi, đành tự tử theo thành. Các tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng tuy chiếm được Quy Nhơn, nhưng cũng không chịu nổi áp lực của quân chúa Nguyễn từ hai phía bắc và nam đổ đến tấn công, nên phải bỏ Quy Nhơn tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802), theo đường núi qua Ai Lao, ra Nghệ An.

    Ngày 2-5- nhâm tuất (l-6-1802), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua tại Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, rồi tự mình đem quân ra bắc, đánh dẹp lực lượng Tây Sơn còn lại. Lê Văn Duyệt được thăng Khâm sai chưởng tả quân Bình Tây tướng quân, và Lê Chất làm Khâm sai chưởng hậu quân Bình Tây tướng quân, cùng nhau dẫn quân đi trước. Lực lượng nhà Nguyễn tiến chiếm Thăng Long, và bắt được vua Cảnh Thịnh dễ dàng, chấm dứt nhà Tây Sơn.

    Sau việc nước đến việc nhà. Vua Gia Long thấy Lê Văn Duyệt là hoạn quan, không thể có con nối dòng, nên nhân cuộc gặp gỡ với Lê Văn Toại, phụ thân Lê Văn Duyệt, từ Gia Định ra Phú Xuân thăm con năm quý hợi (1803), nhà vua chỉ định người con của Lê Văn Phong, em của Lê Văn Duyệt, tên là Lê Văn Yên, làm con nối dòng cho Duyệt. Lê Văn Duyệt được vua Gia Long xem là một trong những vị tướng thân cận nhất của nhà vua. Mỗi lần đi tuần hành phương xa như ra Bắc thành, vào Quảng Nam, vua đều giao Phú Xuân cho Lê Văn Duyệt bảo vệ, hay mỗi khi có loạn lạc nguy hiểm, vua cũng giao cho Lê Văn Duyệt cầm quân đánh dẹp, nhất là các cuộc nổi dậy của các sắc dân miền núi ở Quảng Ngãi. Lê Văn Duyệt đi đến đâu, ở đó yên tĩnh, vì Lê Văn Duyệt là một vị tướng trị quân rất nghiêm minh, không cho thuộc cấp sách nhiễu dân chúng; đồng thời ông vừa dùng quân sự, vừa dùng chính trị để thu phục nhân tâm, và rất cương quyết trong khi thi hành luật lệ, nên dân chúng vừa nể, vừa phục, và vừa sợ.

    Năm Nhâm Thân (1812) , vua Xiêm (Thái lan) s ai quân xâm lấn Chân Lạp (Cambodia). Vua Chân Lạp chạy sang Gia Định tỵ nạn. Vua Gia Long liền cử Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành để giải quyết luôn việc Chân Lạp. Lê Văn Duyệt thương thuyết với sứ xiêm và sắp đặt đưa vua Chân Lạp về nước. Khi sứ Xiêm đem báu vật tặng Lê Văn Duyệt, ông trình lên triều đình xin ý kiến chứ không nhận làm của riêng. Vua Chân Lạp trở về nước, tặng nước ta 88 thớt voi. Lê Văn Duyệt tâu với vua Gia Long rằng nước Chân Lạp mới phục hồi, kho tàng còn trống, xin tính giá voi thành tiền trả cho Chân Lạp, liền được nhà vua chấp thuận.

    Năm Ất Hợi (1815), Lê Văn Duyệt được triệu về kinh đô . Lúc đó đang xảy ra vụ án Nguyễn Văn Thuyên. Vua Gia Long giao vụ việc cho ông Lê tra xét. Sau một lần thẩm vấn, Nguyễn Văn Thuyên nhận tội, đưa đến sự kết thúc bi thảm vụ án nầy.

    Trong thời gian đó, Lê Văn Duyệt vào Quảng Ngãi trước sau bốn lần để tiểu trừ người miền núi nổi dậy tại đây. Năm Kỷ Mão (1819) , hai trấn Thanh Hóa, Nghệ An mất mùa, dân tình đói khổ, trộm cướp nổi lên quấy phá, quan quân sở tại không dẹp yên được Vua Gia Long liền cử Lê Văn Duyệt làm kinh lược địa phận hai trấn đó. Vừa dùng quân sự, vừa dùng chính trị, không bao lâu Lê Văn Duyệt ổn định được tình hình. Hơn 900 người ra đầu thú, đều được ông Lê tâu xin triều đình khoan hồng và tha mạng. Trong nhóm nầy, có Nguyễn Hữu Khôi sau đổi tên là Lê Văn Khôi.

    Vua Gia Long từ trần ngày 19 tháng chạp năm Kỷ Mão (3-2-1820). Trước khi mất , nhà vua cho triệu Lê Văn Duyệt cùng thượng thư bộ lễ là Phạm Đăng Hưng dặn dò hậu sự. Sau khi vua Minh Mạng (trị vì 1820- 1840) lên ngôi, nhà vua cử Lê Văn Duyệt vào làm tổng trấn Gia Định dân thứ nhì tháng 5 năm canh thìn (1820) với quyền hạn rất lớn “thăng giáng quan lại, lấy lợi trừ hại, việc thành, mưu kế ngoài biên, đều được tiện nghi làm việc", kể cả quyền "tiền trảm hậu tấu” (giết trước tâu sau). Hành động nầy của vua Minh Mạng có thể do hai nguyên nhân. Thứ nhất nhà vua e ngại uy tín lê Văn Duyệt quá lớn, tính tình lại nóng nảy, có thể gây ra đảo chánh cung đình vì lúc đó cháu đích tôn của vua Gia Long, hoàng tôn Mỹ Đường (Đán), con hoàng tử Cảnh, cháu gọi Minh Mạng bằng chú, khá lớn tuổi và vẫn còn sống. Trong triều đình đã từng có dư luận đề nghị vua Gia Long chọn Mỹ Đường để kế vị ngôi báu. Thứ nhì tình hình Gia Định lúc đó bất ổn. Một nhà sư người Chân Lạp (Cao Miên) tên là Kế, dùng phù chú mê hoặc lòng dân, tự xưng Chiêu Vương, xúi người Chân Lạp nổi dậy, cướp bóc các vùng biên giới giữa hai nước Việt Miên. tình hình nầy cần một nhà cai trị tài giỏi và cứng rắn, lại được vua tin cẩn giao toàn quyền hành động tại chỗ. Người đó không ai thích hợp hơn Lê Văn Duyệt.

    Trở vào Gia Định, Lê Văn Duyệt sai quân dẹp yên ngay loạn sư Kế. Để giữ gìn kỷ cương quan lại, viên Phó tổng trấn là Huỳnh Công Lý phạm tội tham ngược liền bị Lê Văn Duyệt ra lệnh xử tử, dầu y có con gái là hầu thiếp của nhà vua. Lê Văn Duyệt cai trị rất nghiêm minh. ông còn thi hành một chính sách ngoại giao uyển chuyển, ôn hòa với các nước tây phương, không gây trở ngại trong việc các giáo sĩ Thiên Chúa giáo truyền đạo, giữ vững việc bảo hộ Chân Lạp, làm cho Xiêm La nể sợ, và cả Miến Điện cũng rất mến phục.

    Năm Quý Mùi (1823), Lê Văn Duyệt về triều (Huế) phúc trình tình hình Gia Định thành, xin vua thu dụng con cháu các công thần đã hy sinh thời Nguyễn Phúc Ánh còn bôn tẩu ở miền NamNăm sau (1824), ông về triều dân nữa, gặp lúc lổng trấn Bắc thành là Lê Chất cũng về triều. Lê Chất bàn rằng: "Bây giờ triều đình nắm cả quyền cương, mở mang trăm việc tiến dùng văn thần, trách thành chính trị, lũ chúng ta đều là võ biền. xuất thân chỉ biệt thẳng lòng làm ngay, hoặc sai lễ pháp, tự điển lúc thái bình khác với lúc mới dựng triều đình, chả gì bằng ta dâng biểu xin thôi việc hai thành " Lê Văn Duyệt đồng ý. Hai ông liền cùng dâng sớ xin rút lui. Vua Minh Mạng không chấp thuận, sai hai ông trở về nhiệm sở làm việc. Trong năm nầy, hoàng thân Mỹ Đường bị tố cáo thông dâm với mẹ [?], vua sai Lê Văn Duyệt bắt gìm nước chết.

    Nhân lễ đại khánh tiết Thuận Thiên Cao hoàng hậu năm Đinh Hợi (1827) , vợ thứ vua Gia Long, mẹ ruột vua Minh Mạng, được 60 tuổi, Lê Văn Duyệt ra Huế triều yết. Vua Minh Mạng nhận xét về Lê tả quân như sau: "Người [ta] nói lê Văn Duyệt xuất tích cương lệ [cứng rắn], nay trẫm xem ra thì Duyệt trung thuận, nghĩa thờ vua vẫn giữ được, những tính bình nhật cương lệ đều rửa sạch hết..” Ngoài việc tăng phẩm hàm cho cha mẹ Lê Văn Duyệt, khi Lê Văn Duyệt trở vào Gia Định, vua Minh Mạng ra dụ rằng: "Gia Định là trọng trấn phương Nam, không nên vắng lâu. Ngươi ngày thường vẫn được người Xiêm sợ, nay lại giữ một mặt ấy có thể hùng dũng như hổ báo ở núi. Cũng là thâm ý chê phục người xa vậy. "

    Dưới sự cai trị của Lê Văn Duyệt, tình hình Gia Định thành chẳng những rất ổn định mà còn phát triển mạnh mẽ, kinh tế càng ngày càng phồn thịnh, dân số càng ngày càng tăng trường. Ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (25-8-1832), Lê Văn Duyệt từ trần. Vua Minh Mạng tặng hàm Thái bảo, cho sa màu, gấm màu, 3.000 quan tiền và cho tế một đàn.

    [/FONT]
    [FONT=Arial, Helvetica, sans-serif]
    [/FONT]
     

Chia sẻ trang này

Tình hình diễn đàn

  1. khosiquaxinh,
  2. tranhthiec.net,
  3. passio,
  4. Nguyễn hà giang,
  5. sonblackberry
Tổng: 1,315 (Thành viên: 5, Khách: 1,286, Robots: 24)