Tìm kiếm bài viết theo id

Toàn Quốc - Thuốc Gleevec 400mg chống ung thư chính hãng Novartis giá tốt ! 0122 456 0122

Thảo luận trong 'Linh tinh' bắt đầu bởi hieuhien789, 17/6/14.

ID Topic : 7397505
Ngày đăng:
17/6/14 lúc 11:33
  1. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    Tham gia ngày:
    11/12/10
    Tuổi tham gia:
    13
    Bài viết:
    18,885
    Thuốc Glivec điều trị ung thư bạch cầu, ung thư dạ dày, ung thư ruột không cần hoá trị.

    Bán thuốc Gleevec 400mg điều trị ung thư bạch cầu, ung thư dạ dày, ung thư ruột chính hãng Novartis, do người nhà ở USA điều trị và bệnh tình đã thuyên giảm rõ rệt. Được biết đây là thuốc điều trị bệnh ung thư tốt nhất hiện nay. Ai có nhu cầu vui lòng liên hệ trực tiếp : 0122.456.0122 gặp Đức. Địa chỉ 14/10 Nguyễn Văn Dưỡng P Tân Quý Q Tân Phú. Giá: 450 USD/ Hộp .

    Thông tin chi tiết : http://chuyentriungthu.com

    Hiện nay ở nước ngoài đang bán với giá là 4.463 USD. Do thuốc này được mua dưới chương trịnh bảo hiểm của chính phủ Mỹ nên có giá thấp hơn thị trường. Tuyêt đối không có hàng giả, hàng nhái hay bất cứ hành vi gian lận nào.

    Với người có hoàn cảnh khó khăn hoặc có nhu cầu sử dụng lâu dài có thể liên hệ trưc tiếp để có giá ưu đãi.

    Dưới đây là hình ảnh hộp thuốc, link website bán và thông tin về thuốc:
    Nhà sản xuất Novartis Pharma
    Nhà phân phối DKSH
    Thành phần Imatinib mesylate.
    Chỉ định Người lớn và trẻ em: bạch cầu tủy mạn với nhiễm sắc thể Philadelphia (+) (Ph+ CML) mới được chẩn đoán, bạch cầu tủy mạn trong cơn nguyên bào, giai đoạn tăng tốc/mạn tính sau khi đã thất bại với điều trị interferon-alpha. Người lớn: bạch cầu nguyên bào lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia (+) (Ph+ ALL) được sử dụng hóa liệu pháp, bạch cầu nguyên bào lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia (+) tái phát hoặc kháng lại khi dùng đơn trị liệu, loạn sản tủy/tăng sinh tủy xương (MDS/MPD) liên quan sự sắp xếp lại gen của thụ thể yếu tố tăng trưởng nguồn gốc tiểu cầu (PDGFR), bệnh lý dưỡng bào hệ thống (SM) không có đột biến D816V c-Kit hoặc chưa biết tình trạng đột biến c-Kit, h/c tăng bạch cầu ái toan (HES) và/hoặc bạch cầu mạn tế bào ái toan (CEL), u mô đệm dạ dày ruột (GIST) ác tính với Kit+ (CD117) không thể cắt bỏ và/hoặc đã di căn, sau phẫu thuật cắt bỏ GIST Kit+, u sarcom sợi bì lồi (DFSP) không thể cắt bỏ, tái phát và/hoặc đã di căn.
    Liều dùng Người lớn: Ung thư bạch cầu tủy mạn: giai đoạn mạn: 400-800 mg/ngày; giai đoạn chuyển cấp và cơn bùng phát: 600-800 mg/ngày, chia 1-2 lần. Ph+ ALL: 600 mg/ngày. MDS/MPD: 400 mg/ngày. SM:400 mg/ngày; SM kết hợp tăng eosin: 100 mg/ngày, có thể tăng 400 mg/ngày nếu dung nạp tốt và đáp ứng điều trị không đầy đủ. U ác tính đường tiêu hóa: không thể phẫu thuật và/hoặc đã di căn: 400-600 mg/ngày, điều trị bỗ trợ sau phẫu thuật cắt bỏ GIST: 400 mg/ngày. U sarcom sợi bì lồi (DFSP):800 mg/ngày. Trẻ em: Ung thư bạch cầu tủy mạn: 340 mg/m[SUP]2[/SUP]/ngày (không vượt quá tổng liều 600 mg/ngày).

    Một số sơ lược về thành phần của thuốc:

    Thành phần Mỗi viên: Imatinib (dưới dạng mesilate) 100mg hoặc 400mg.

    Dược lực Imatinib là một chất ức chế protein tyrosine kinase là chất ức chế mạnh khu vực nhóm điểm gãy-Abelson (BCR-ABL) tyrosine kinase in vitro, trong tế bào, in vivo. Hợp chất này ức chế chọn lọc sự tăng sinh và thúc đầy quá trình chết tế bào theo chương trình (apoptosis) trong dòng tế bào có BCR-ABL dương tính cũng như những tế bào bệnh bạch cầu mới của những bệnh nhân bị CML với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính và bệnh nhân bị bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp (ALL). Trong các thử nghiệm về biến đổi tạo khúm, sử dụng các mẫu máu ngoại biên và tủy xương ex vivo, imatinib cho thấy có ức chế chọn lọc các dòng tế bào BCR-ABL dương tính ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu tủy mạn.

    In vivo hợp chất này cho thấy tác dụng chống u như một đơn chất trong các mô hình động vật sử dụng tế bào u có BCR-ABL dương tính.
    Imatinib còn là một chất ức chế thụ thể tyrosin kinase đối với yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (PDGF) và yếu tố tế bào mầm (SCF), KIT, và ức chế các phản ứng tế bào qua trung gian PDGF và SCF. In vitro, imatinib ức chế sự tăng sinh và thúc đẩy quá trình chết tế bào theo chương trình trong tế bào u mô đệm dạ dày ruột (GIST), biểu thị một sự đột biến KIT hoạt động. Sự hoạt hóa cơ bản PDGFR hoặc ABL protein tyrosin kinase như là hậu quả của sự kết hợp thành các protein khác nhau hoặc sự sản xuất các thành phần của PDGF cho thấy sự liên quan đến sinh bệnh học của MDS/MPD, HES/CEL và DFSP. Hơn nữa sự hoạt hóa cơ bản của KIT hoặc PDRFG cho thấy sự liên quan về sinh bệnh học của u tế bào dưỡng bào hệ thống (SM). Imatinib ức chế việc báo hiệu và tăng sinh tế bào do rối loạn điều chỉnh hoạt động của PDGFR, KIT và ABL kinase.

    Những nghiên cứu lâm sàng trên bệnh CML
    Hiệu quả của Glivec dựa trên tỷ lệ đáp ứng nói chung về huyết học và di truyền học tế bào và thời gian còn sống không có tiến triển bệnh. Ngoại trừ bệnh bạch cầu tủy mạn giai đoạn mạn tính mới được chẩn đoán, chưa có các thử nghiệm có kiểm chứng để chứng minh hiệu quả lâm sàng như sự cải thiện các triệu chứng liên quan đến bệnh hoặc tăng tỷ lệ sống sót.
    Ba nghiên cứu giai đoạn II lớn, đa quốc gia, biết rơ tên thuốc, không đối chứng đã được tiến hành trên những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu tủy mạn (CML) với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính (Ph+) giai đoạn tiến triển, cơn nguyên bào hoặc giai đoạn cấp tính, hoặc bệnh bạch cầu có Ph+ khác hoặc bệnh bạch cầu tủy mạn giai đoạn mạn tính nhưng thất bại với điều trị bằng interferon-alpha (IFN). Một nghiên cứu lớn ngẫu nhiên, giai đoạn III biết rơ tên thuốc, đa trung tâm, đa quốc gia đã được tiến hành trên những bệnh nhân bị Ph+ CML mới được chẩn đoán. Ngoài ra, trẻ em đã được điều trị trong 2 nghiên cứu giai đoạn I và một thử nghiệm giai đoạn II đa trung tâm, biết rơ tên thuốc, đơn nhóm.

    Trong tất cả nghiên cứu lâm sàng, có 38-40% bệnh nhân ≥ 60 tuổi và 10-12% bệnh nhân ≥ 70 tuổi.
    Giai đoạn mạn tính, mới được chẩn đoán: Nghiên cứu giai đoạn III này đã so sánh việc điều trị đơn thuần bằng Glivec với liều 400 mg/ngày hoặc phối hợp interferon-alpha (IFN) 5 MIU/m2/ngày và cytarabine (Ara-C) 20 mg/m2/ngày, cùng tiêm dưới da 10 ngày trong một tháng. Các bệnh nhân có biểu hiện thiếu đáp ứng (thiếu đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR) sau 6 tháng, tăng bạch cầu (WBC), không có đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR) sau 24 tháng), mất đáp ứng (mất CHR hoặc MCyR) hoặc rất kém dung nạp với điều trị thì được phép đổi sang nhóm điều trị khác.

    Tổng số 1.106 bệnh nhân đã được chọn ngẫu nhiên, 533 bệnh nhân cho mỗi nhóm. Tuổi trung vị là 51 tuổi (từ 18 đến 70 tuổi), với 21,9% bệnh nhân ≥ 60 tuổi. Có 59% nam và 41% nữ. Sau 7 năm theo dơi, thời gian trung vị của trị liệu đầu tay là 82 tháng ở nhóm Glivec và 8 tháng ở nhóm IFN. Thời gian trung vị của trị liệu hàng thứ hai bằng Glivec là 64 tháng. Nói chung, ở những bệnh nhân đang dùng Glivec là trị liệu đầu tay, liều trung bình hàng ngày của Glivec là 406 ± 78 mg. Là kết quả của tỷ lệ cao hơn các trường hợp ngừng điều trị và điều trị chéo, chỉ 2% bệnh nhân đã chọn ngẫu nhiên dùng IFN tiếp tục dùng điều trị đầu tay. Trong nhóm dùng IFN, rút lại cam kết nghiên cứu (14%) là lý do thường gặp nhất đối với việc ngừng trị liệu đầu tay, và lý do thường gặp nhất đối với việc chuyển sang nhóm Glivec là rất kém dung nạp với điều trị (26%) và do tiến triển của bệnh (14%). Kết cục chính về hiệu quả của nghiên cứu này là tỷ lệ bệnh nhân còn sống không có tiến triển bệnh. Sự tiến triển được xác định khi có bất kỳ sự cố nào sau đây: tiến triển đến cơn cấp tính hoặc cơn nguyên bào (AP/BC), tử vong, mất đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR) hoặc không có đáp ứng về di truyền tế bào học chủ yếu (MCyR), hoặc bệnh nhân không đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn mà có tăng bạch cầu mặc dù đã có biện pháp điều trị thích hợp. Đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu, đáp ứng huyết học, đáp ứng phân tử (đánh giá bệnh còn lại ở mức tối thiểu), thời gian đến giai đoạn cấp tính hoặc cơn nguyên bào và tỷ lệ bệnh nhân còn sống là những kết cục thứ yếu chính. Dữ liệu về sự đáp ứng được biểu thị trong Bảng 1.

    Tiêu chuẩn đáp ứng huyết học (tất cả đáp ứng được xác định ≥ 4 tuần):
    Bạch cầu < 10 x 109/L, tiểu cầu < 450 x 109/L, tủy bào + hậu tủy bào < 5% trong máu, không có nguyên tủy bào và tiền tủy bào trong máu, bạch cầu ưa kiềm < 20%, không có bệnh ngoài tủy.
    Tiêu chuẩn đáp ứng di truyền học tế bào: hoàn toàn (0% kỳ giữa nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính), một phần (1-35%), ít (36-65%) hoặc tối thiểu (66-95%). Đáp ứng chủ yếu (0-35%) kết hợp cả đáp ứng hoàn toàn và đáp ứng một phần.

    Tiêu chuẩn đáp ứng phân tử chủ yếu: Trong máu ngoại vi, giảm ≥ 3 logarit về số lượng của bản sao BCR-ABL (được đo bằng thử nghiệm PCR định lượng phiên mã đảo ngược) hơn hẳn mức cơ bản đã được chuẩn hóa.
    Sau 7 năm theo dơi, có 93 trường hợp có biến cố tiến triển bệnh (16,8%) ở nhóm dùng Glivec: 37 trường hợp (6,7%) tiến triển đến giai đoạn cấp tính hoặc cơn nguyên bào (AP/BC), 31 trường hợp (5,6%) mất đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR), 15 trường hợp (2,7%) mất đáp ứng huyết học hoàn toàn hoặc tăng bạch cầu và 10 trường hợp (1,8%) tử vong không liên quan đến bệnh bạch cầu mạn. Ngược lại, có 165 trường hợp (29,8%) trong nhóm dùng interferon + cytarabin (IFN + Ara-C) trong đó 130 trường hợp xảy ra trong suốt thời gian trị liệu đầu tay bằng IFN + Ara-C.
    Tỷ lệ ước tính về số bệnh nhân còn sống không có tiến triển bệnh sau 84 tháng là 81,2% với khoảng tin cậy 95% (78, 85) ở nhóm dùng Glivec và 60,6% (56, 5) ở nhóm chứng (P < 0,001).
    Tổng số có 71 bệnh nhân tử vong (12,8%) ở nhóm dùng Glivec và 85 bệnh nhân tử vong (15,4%) ở nhóm dùng interferon + cytarabine (IFN+Ara-C). Sau 84 tháng tỷ lệ sống sót chung ước tính là 86,4% (83, 90) ở nhóm dùng Glivec so với 83,3% (80, 87) ở nhóm dùng IFN+Ara-C theo xếp nhóm điều trị ngẫu nhiên (p=0,073, thử nghiệm log-rank). Kết cục về thời gian đến khi có biến cố này chịu ảnh hưởng mạnh bởi tỷ lệ cao bệnh nhân chuyển nhóm điều trị từ IFN+Ara-C sang Glivec. Khi xem xét 48 trường hợp tử vong xảy ra sau khi ghép tủy xương, tỷ lệ bệnh nhân còn sống sau 84 tháng là 89,6% so với 88,1% (p=0,200, thử nghiệm log-rank). Chỉ có 31 trường hợp tử vong (5,6%) (trước khi ghép tủy xương) ở bệnh nhân dùng Glivec được cho là do bệnh CML, so với 40 bệnh nhân tử vong (7,2%) dùng IFN+Ara-C. Nếu chỉ xem xét số bệnh nhân tử vong liên quan đến bệnh bạch cầu tủy mạn và xem xét mọi trường hợp tử vong sau khi ghép tủy xương hoặc do nguyên nhân nào khác, tỷ lệ ước tính số bệnh nhân còn sống sau 84 tháng là 93,6% so với 91,1% (p=0,1, thử nghiệm log-rank).

    Trong nghiên cứu này, cho phép tăng liều từ 400 mg/ngày lên 600 mg/ngày sau đó từ 600 mg/ngày đến 800 mg/ngày. Sau 42 tháng theo dơi, 11 bệnh nhân đã đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR) sau 3 tháng, và đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR) sau 12 tháng trong khi dùng liều 400 mg/ngày đã được xác định là bị mất đáp ứng di truyền học tế bào (trong vòng 4 tuần). Trong số 11 bệnh nhân này, 4 bệnh nhân tăng đến 800 mg/ngày, 2 trong số này đạt lại đáp ứng di truyền học tế bào (1 bệnh nhân đáp ứng một phần và 1 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn, trường hợp sau còn đạt được đáp ứng phân tử), trong khi trong số 7 bệnh nhân không tăng liều, chỉ có 1 bệnh nhân đạt lại đáp ứng di truyền học tế bào hoàn toàn. Tỷ lệ phần trăm của một số phản ứng phụ (ADRs) cao hơn ở 40 bệnh nhân với liều tăng đến 800 mg/ngày so với nhóm bệnh nhân trước khi tăng liều (n=551). Những phản ứng phụ (ADRs) thường gặp bao gồm xuất huyết tiêu hóa, viêm kết mạc và tăng transaminase hoặc bilirubin. Các phản ứng phụ (ADRs) khác được báo cáo với tần suất thấp hơn hoặc tương đương.

    Giai đoạn mạn tính, thất bại với điều trị interferon: 532 bệnh nhân được điều trị với liều khởi đầu 400 mg. Bệnh nhân được phân ra làm 3 loại chính: thất bại về huyết học (29%), thất bại về di truyền học tế bào (35%) hoặc không dung nạp với interferon (36%). Các bệnh nhân đã được điều trị trung bình 14 tháng trước đó bằng interferon với liều ≥ 25 x 106 IU/tuần và tất cả đều ở cuối giai đoạn mạn tính, với trung vị thời gian kể từ lúc chẩn đoán là 32 tháng. Biến số hiệu quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ của đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (đáp ứng hoàn toàn cộng với đáp ứng một phần, 0 - 35% kỳ giữa của phân bào với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính ở tủy xương).

    Trong nghiên cứu này, 65% bệnh nhân đạt được đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR) trong đó 53% bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn. Đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR) đạt được ở 95% bệnh nhân.
    Giai đoạn cấp tính: 235 bệnh nhân ở giai đoạn cấp của bệnh được tham gia nghiên cứu. Đầu tiên 77 bệnh nhân được bắt đầu với 400 mg và 158 bệnh nhân còn lại được bắt đầu với liều 600 mg.

    Biến số hiệu quả chính là tỷ lệ của đáp ứng huyết học, được ghi nhận hoặc là đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR), hoặc không còn dấu hiệu của bệnh bạch cầu (tức là không còn nguyên bào ở tủy xương và máu nhưng không có sự phục hồi máu ngoại vi đầy đủ như đối với đáp ứng hoàn toàn), hoặc là trở lại bệnh bạch cầu tủy mạn giai đoạn mạn tính. Đáp ứng huyết học xác định đã đạt được ở 71,5% bệnh nhân. Điều quan trọng là 27,7% bệnh nhân cũng đạt được đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR) trong đó đáp ứng hoàn toàn chiếm 20,4% số bệnh nhân. Đối với những bệnh nhân được điều trị 600 mg, ước tính trung vị thời gian còn sống không có tiến triển là 22,9 tháng và thời gian sống sót chung là 42,5 tháng. Trong một phân tích đa biến số, liều 600 mg có liên quan với cải thiện thời gian tiến triển bệnh không phụ thuộc vào số lượng tiểu cầu, nguyên bào máu và hemoglobin ≥ 10 g/L.

    Cơn nguyên bào tủy: 260 bệnh nhân có cơn nguyên bào tủy được tham gia nghiên cứu. 95 bệnh nhân (37%) đã được dùng hóa trị liệu trước đó để điều trị giai đoạn cấp tính hoặc cơn nguyên bào ("những bệnh nhân đã được điều trị trước") trong khi 165 bệnh nhân (63%) chưa được điều trị ("những bệnh nhân chưa được điều trị"). 37% bệnh nhân nếu trước được bắt đầu với liều 400 mg, sau đó đề cương nghiên cứu được điều chỉnh cho phép dùng liều cao hơn và 223 bệnh nhân còn lại được bắt đầu với liều 600 mg.

    Biến số hiệu quả chính là tỷ lệ của đáp ứng huyết học, được báo cáo hoặc là đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR), hoặc không còn dấu hiệu của bệnh bạch cầu, hoặc là trở lại bệnh bạch cầu tủy mạn giai đoạn mạn tính. 31% bệnh nhân đạt được đáp ứng huyết học (36% ở nhóm bệnh nhân chưa được điều trị và 22% ở nhóm bệnh nhân đã được điều trị trước). Tỷ lệ đáp ứng cũng cao hơn ở những bệnh nhân được điều trị liều 600 mg (33%) khi so sánh với những bệnh nhân được điều trị liều 400 mg (16%, p=0,022). Ước tính trung vị thời gian còn sống của những bệnh nhân chưa được điều trị là 7,7 tháng và bệnh nhân đã được điều trị trước là 4,7 tháng.

    Bệnh nhi: Tổng số 51 bệnh nhi bị bệnh bạch cầu tủy mạn ở giai đoạn mạn tính mới được chẩn đoán và chưa được điều trị đã được tham gia nghiên cứu trong một thử nghiệm giai đoạn II đơn nhóm, biết rơ tên thuốc, đa trung tâm và được điều trị bằng Glivec 340 mg/m2/ngày. Việc điều trị bằng Glivec đã tạo ra đáp ứng nhanh chóng ở bệnh nhi bị bệnh bạch cầu tủy mạn mới được chẩn đoán với đáp ứng huyết học hoàn toàn (CHR) là 78% sau 8 tuần điều trị và tỷ lệ về đáp ứng di truyền học tế bào hoàn toàn (CCyR) là 65% (tương đương với kết quả quan sát được ở người lớn) sau 3 đến 10 tháng điều trị.

    Tổng số 31 bệnh nhi đã được điều trị tích cực trước đó (45% bệnh nhi đã được điều trị trước đó bằng ghép tủy xương (BMT) và 68% được dùng đa hóa trị liệu) bị bệnh bạch cầu tủy mạn giai đoạn mạn tính (n=15) hoặc bệnh bạch cầu tủy mạn trong cơn nguyên bào hoặc bệnh Ph+ALL (n=16) được tham gia nghiên cứu trong thử nghiệm giai đoạn I có tăng liều. Các bệnh nhân được điều trị Glivec với liều giữa 260 mg/m2/ngày và 570 mg/m2/ngày. Trong số 13 bệnh nhân bị bệnh bạch cầu tủy mạn và có các dữ liệu về di truyền học tế bào, 7 bệnh nhân (54%) đạt được đáp ứng di truyền học tế bào hoàn toàn và 4 bệnh nhân (31%) đạt được đáp ứng di truyền học tế bào một phần đối với tỷ lệ đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu (MCyR) 85%.

    Các nghiên cứu lâm sàng trên bệnh Ph+ ALL
    Tổng số 851 bệnh nhân bị bệnh bạch cầu lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính mới được chẩn đoán hoặc bệnh tái phát/đề kháng tham gia trong 11 nghiên cứu lâm sàng, trong đó 10 nghiên cứu không kiểm chứng và 1 nghiên cứu ngẫu nghiên. Trong số 851 bệnh nhân, có 93 bệnh nhân trẻ em (bao gồm 4 bệnh nhân lớn hơn 18 tuổi và nhỏ hơn 22 tuổi) đã được điều trị trong một nghiên cứu pha III, không chia ngẫu nhiên, đa trung tâm, nhãn mở.

    Bệnh Ph+ ALL mới được chẩn đoán
    Trong một nghiên cứu có kiểm chứng (ADE10) dùng Glivec so với gây cảm ứng bằng hóa liệu pháp ở 55 bệnh nhân mới được chẩn đoán ở độ tuổi từ 55 tuổi trở lên, Glivec được dùng như một thuốc duy nhất tạo ra tỷ lệ đáp ứng huyết học hoàn toàn cao hơn đáng kể so với hóa liệu pháp (96,3% so với 50%; p=0,0001). Khi cố gắng cứu chữa cho những bệnh nhân không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với hóa liệu pháp bằng trị liệu Glivec, đã có đến 9 bệnh nhân (81,8%) trong số 11 bệnh nhân đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn. Hiệu quả lâm sàng này có kết hợp với sự giảm nhiều hơn phiên mã BCR-ABL ở các bệnh nhân được điều trị bằng Glivec so với nhóm dùng hóa liệu pháp sau 2 tuần điều trị (p=0,02). Tất cả bệnh nhân được cho dùng Glivec và củng cố bằng hóa liệu pháp sau khi gây cảm ứng và mức độ phiên mã BCR-ABL giống nhau ở cả 2 nhóm sau 8 tuần. Như đã trông đợi trên cơ sở của thiết kế nghiên cứu, không quan sát thấy sự khác nhau nào về thời gian thuyên giảm bệnh, thời gian còn sống không mắc bệnh hoặc tỷ lệ còn sống nói chung, mặc dù bệnh nhân có đáp ứng phân tử hoàn toàn và bệnh nhân còn bệnh tối thiểu đã có kết cục tốt hơn về cả thời gian thuyên giảm bệnh (p=0,01) và thời gian còn sống không mắc bệnh (p=0,02).

    Các kết quả quan sát được trong nhóm 211 bệnh nhân bị bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính mới được chẩn đoán trong 4 nghiên cứu lâm sàng không kiểm chứng (AAU02, ADE04, AJP01 và AUS01) phù hợp với các kết quả đã mô tả ở trên.
    Tương tự, trong 2 nghiên cứu lâm sàng không kiểm chứng (AFR09 và AIT04), 49 bệnh nhân từ 55 tuổi trở lên bị bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính (Ph+ ALL) mới được chẩn đoán được cho dùng Glivec kết hợp với steroid có hoặc không dùng hóa liệu pháp. Kết quả được thể hiện ở bảng 2.

    Bệnh Ph+ ALL tái phát/đề kháng
    Khi Glivec được dùng như là thuốc duy nhất trên bệnh nhân bị bệnh Ph+ ALL tái phát/đề kháng, có 66 bệnh nhân trong số 429 bệnh nhân có thể đánh giá được về đáp ứng, có tỷ lệ đáp ứng huyết học là 33% (12% hoàn toàn) và tỷ lệ đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu là 23%. Trung vị thời gian tiến triển trong toàn bộ dân số nghiên cứu gồm 429 bệnh nhân bị bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp với nhiễm sắc thể Philadelphia dương tính tái phát/đề kháng nằm trong khoảng từ 1,9 đến 3,1 tháng, và trung vị thời gian còn sống chung trên 409 bệnh nhân có thể đánh giá được khoảng từ 5 đến 9 tháng. Trong 14 bệnh nhân, dùng Glivec kết hợp với hóa liệu pháp gây cảm ứng có tỷ lệ đáp ứng huyết học hoàn toàn là 92% ở 12 bệnh nhân có thể đánh giá được và tỷ lệ đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu là 100% ở 8 bệnh nhân có thể đánh giá được. Đáp ứng phân tử đã được đánh giá trên 4 bệnh nhân và 2 bệnh nhân đã đáp ứng hoàn toàn.

    Tổng số 14 trong số 146 bệnh nhân đã được điều trị bằng Glivec 600 mg/ngày và có thể đánh giá được về đáp ứng; đã quan sát thấy đáp ứng huyết học hoàn toàn ở 5 bệnh nhân (35%) và đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu ở 7 bệnh nhân (50%). Trong số các bệnh nhân được ghi nhận, 4 bệnh nhân được điều trị với liều Glivec thấp hơn (400 mg/ngày) đã không đáp ứng. Trong toàn bộ dân số nghiên cứu gồm 146 bệnh nhân, trung vị thời gian còn sống không mắc bệnh trong khoảng từ 2,8 đến 3,1 tháng và trung vị thời gian còn sống chung từ 7,4 đến 8,9 tháng.

    Nghiên cứu lâm sàng trên bệnh MDS/MPD
    Một nghiên cứu lâm sàng giai đoạn II, đa trung tâm, biết rơ tên thuốc (nghiên cứu B2225) tiến hành thử nghiệm Glivec trên những tập hợp bệnh nhân khác nhau bị những bệnh đe dọa đến tính mạng có liên quan tới ABL, KIT hoặc PDGFR protein tyrosine kinase. Nghiên cứu này bao gồm 7 bệnh nhân bị MDS/MPD trong tổng số 185 bệnh nhân được điều trị, 45 trong số họ có bệnh về máu và 140 khối u đặc các loại. Những bệnh nhân này được điều trị với Glivec 400 mg/ngày. Tuổi của các bệnh nhân trong khoảng từ 20 - 86. Thêm 24 bệnh nhân bị MDS/MPD tuổi từ 2 - 79 được tường trình trong 12 báo cáo đã được công bố và 1 thử nghiệm lâm sàng. Những bệnh nhân này cũng được dùng Glivec với liều 400 mg/ngày với 3 bệnh nhân ngoại lệ dùng liều thấp hơn. Trong tổng số 31 bệnh nhân được điều trị bệnh MDS/MPD, 14 (45%) đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn và 9 (29%) đạt được đáp ứng di truyền học tế bào hoàn toàn (39% bao gồm cả các đáp ứng chủ yếu và một phần). Lưu ý, sự ác tính gây chuyển đoạn thường ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể t5q33 hoặc t4q12 dẫn đến sự tái sắp xếp gen PDGFR ở 14 bệnh nhân có thể đánh giá được. Tất cả những bệnh nhân này đã đáp ứng về mặt huyết học (12 có đáp ứng hoàn toàn). Đáp ứng di truyền học tế bào được đánh giá trên 11 trong số 14 bệnh nhân, tất cả trong số họ có đáp ứng (9 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn). Chỉ 2 (13%) trong số 16 bệnh nhân không có chuyển đoạn liên quan đến sự tái sắp xếp gen PDGFR đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn và 1 (6%) đạt được đáp ứng di truyền học tế bào chủ yếu. Thêm 1 bệnh nhân có sự tái sắp xếp gen PDGFR trong tình trạng tái phát về mặt phân tử sau khi ghép tủy xương đã có đáp ứng về mặt phân tử. Trung vị thời gian điều trị là 12,9 tháng (0,8 - 26,7) ở 7 bệnh nhân đã được điều trị trong nghiên cứu B2225 và được sắp xếp trong khoảng 1 tuần và hơn 18 tháng ở những bệnh nhân có đáp ứng trong các y văn đã được công bố. Kết quả được đưa ra trong Bảng 3.

    Nghiên cứu lâm sàng trên bệnh SM
    Nghiên cứu B2225 cũng bao gồm 5 bệnh nhân (tuổi từ 49 đến 74) bị u dưỡng bào hệ thống (SM) điều trị bằng Glivec 100 mg đến 400 mg/ngày. Thêm 25 bệnh nhân bị SM tuổi từ 26 đến 85 cũng được dùng Glivec với liều 100 mg đến 400 mg/ngày đã được báo cáo (10 báo cáo ca bệnh và loạt ca bệnh đã được công bố). Trong số 30 bệnh nhân bị SM, 10 (33%) đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn và 9 (30%) đáp ứng huyết học một phần (tỉ lệ đáp ứng toàn bộ 63%). Các bất thường về di truyền học tế bào được đánh giá trên 21 trong số 30 bệnh nhân được điều trị trong các báo cáo đã được công bố và trong nghiên cứu B2225. Tám trong số 21 bệnh nhân này có FIP1L1-PDGFR-alpha fusion kinase là loại fusion kinase thường có ở nam giới bị hoặc không bị tăng bạch cầu ưa eosin. Hai bệnh nhân có đột biến KIT ở vùng gần màng (một tại Phe522Cys và một tại K509I). Mười sáu bệnh nhân không biết hoặc không phát hiện được bất thường về di truyền tế bào học. Bốn bệnh nhân có đột biến D816V (một bệnh nhân có đáp ứng mắc kết hợp CML và SM). Phần lớn các bệnh nhân trong y văn có đột biến D816V KIT không được xem là nhạy cảm với Glivec. Trung vị thời gian điều trị là 13 tháng (từ 1,4 - 22,3 tháng) ở 5 bệnh nhân trong nghiên cứu B2225 và trong khoảng từ 1 đến hơn 30 tháng ở bệnh nhân có đáp ứng trong y văn. Kết quả được trình bày trong bảng 4.

    Nghiên cứu lâm sàng trên HES/CEL
    Nghiên cứu B2225 này cũng bao gồm 14 bệnh nhân (tuổi từ 16 đến 64) bị HES/CEL điều trị bằng Glivec 100 mg đến 1000 mg/ngày. Thêm 162 bệnh nhân HES/CEL (tuổi từ 11 đến 78) dùng Glivec với liều 75 mg đến 800 mg/ngày được báo cáo (35 báo cáo ca bệnh và loạt ca bệnh đã được công bố). Trong số 176 bệnh nhân HES/CEL được điều trị, 107 (61%) đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn và 16 (9%) đáp ứng huyết học một phần (tỉ lệ đáp ứng chung 70%). Các bất thường về di truyền học tế bào được đánh giá ở 117 trong số 176 bệnh nhân được điều trị trong các báo cáo đã được công bố và trong nghiên cứu B2225. FIP1L1-PDGFR-alpha fusion kinase được tìm thấy ở 61 trên tổng số 117 bệnh nhân. Tất cả những bệnh nhân dương tính với FIP1L1-PDGFR-alpha fusion kinase này đều đạt được đáp ứng huyết học hoàn toàn. 115 bệnh nhân âm tính với hoặc không biết có FIP1L1-PDGFR-alpha fusion kinase, trong đó 62 (54%) đạt được đáp ứng hoặc là đáp ứng huyết học hoàn toàn (n = 46) hoặc một phần (n = 16). Kết quả được trình bày trong bảng 5.

    Ngoài ra, sự cải thiện về triệu chứng học và các bất thường rối loạn chức năng cơ quan khác (tim, thần kinh, da/mô dưới da, hô hấp/ngực/trung thất, cơ xương/mô liên kết/mạch và hệ cơ quan dạ dày ruột) đã được tường trình trong các báo cáo ca bệnh.

    Nghiên cứu lâm sàng trên bệnh GIST không thể cắt bỏ hoặc đã di căn
    Hai nghiên cứu giai đoạn III, đa quốc gia, ngẫu nhiên, biết rơ tên thuốc (SWOG, EORTC) đã được tiến hành trên những bệnh nhân bị u mô đệm dạ dày ruột (GIST) ác tính không thể cắt bỏ hoặc đã di căn. Tổng số 1.640 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên 1:1 dùng thuốc liều 400 mg hoặc 800 mg đường uống 4 lần/ngày liên tục cho đến khi bệnh tiến triển hoặc nhiễm độc nặng. Được phép chuyển sang nhóm điều trị 800 mg 4 lần/ngày. Các nghiên cứu được thiết kế để so sánh tỉ lệ đáp ứng, thời gian sống không tiến triển bệnh và thời gian còn sống nói chung giữa các nhóm liều. Các bệnh nhân đều có chẩn đoán bệnh học là GIST ác tính có CD 117 dương tính không thể cắt bỏ và/hoặc đã di căn.

    Mục tiêu chính của hai nghiên cứu là đánh giá hoặc là thời gian sống không tiến triển bệnh (PFS) với mục tiêu thứ hai là thời gian sống nói chung (OS) trong một nghiên cứu (EORTC), hoặc là thời gian còn sống nói chung với mục tiêu phụ là PFS trong một nghiên cứu khác (SWOG). Một bản phân tích theo kế hoạch đối với cả OS và PFS từ các bộ dữ liệu kết hợp của hai nghiên cứu này đã được tiến hành. Kết quả của sự phân tích kết hợp này được trình bày trong bảng 6.

    Trung vị thời gian theo dơi của các nghiên cứu kết hợp là 37,5 tháng. Không có một cải thiện đáng kể có ý nghĩa thống kê về PFS trong nhóm điều trị 800 mg (23,2 so với 18,9 tháng) ở nhóm điều trị 400 mg (p=0,03). Tuy nhiên, không có những sự khác biệt quan sát được về thời gian còn sống chung giữa các nhóm điều trị (p=0,98). PFS chung được ước tính cho tất cả 1640 bệnh nhân trong các nghiên cứu giai đoạn III này là 21 tháng và OS được ước tính là 48,8 tháng. Chỉ có 5,1% số bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn được xác nhận và 47,5% đạt được đáp ứng một phần. Việc điều trị ở mức liều nào nhìn chung đều được hấp thu tốt và tất cả có 5,4% số bệnh nhân rút lui do độc tính.

    Một nghiên cứu giai đoạn II, đa quốc gia, ngẫu nhiên, biết rơ tên thuốc đã được tiến hành trên bệnh nhân bị GIST ác tính không thể cắt bỏ hoặc đã di căn. Trong nghiên cứu này có 147 bệnh nhân tham gia và được chọn ngẫu nhiên dùng thuốc liều 400 mg hoặc 600 mg đường uống 1 lần/ngày cho đến 36 tháng.

    Chứng cứ chủ yếu về hiệu quả dựa trên các tỷ lệ đáp ứng mục tiêu. Sự đánh giá về đáp ứng dựa trên tiêu chuẩn của nhóm nghiên cứu về ung thư Southwestern (Southwestern Oncology Group - SWOG). Trong nghiên cứu này, 83% bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần hoặc là bệnh ổn định. Các kết quả được mô tả trong Bảng 7.

    Không có sự khác nhau về tỷ lệ đáp ứng giữa 2 nhóm liều dùng (trung vị thời gian theo dơi là 31 tháng). Trung vị thời gian đến lúc đáp ứng là 13 tuần. Trung vị thời gian đến thất bại điều trị ở những người đáp ứng là 122 tuần trong khi trong dân số nghiên cứu chung thời gian này là 84 tuần. Trung vị thời gian còn sống nói chung chưa ghi nhận được. Ước tính Kaplan-Meier về tỷ lệ còn sống sau thời gian theo dơi 36 tháng là 68% (Hình 1). Ngoài ra, không có sự khác biệt về tỷ lệ còn sống giữa bệnh nhân đạt được bệnh ổn định và bệnh nhân đáp ứng một phần (Hình 2).

    Các nghiên cứu lâm sàng trên điều trị bổ trợ cho GIST
    Trong chế độ điều trị bổ trợ, Glivec được nghiên cứu trong một thử nghiệm giai đoạn III, đa trung tâm, mù đôi, thời gian dài, có kiểm chứng với giả dược (Z9001) bao gồm 773 bệnh nhân.

    Kết cục chính của nghiên cứu này là tỉ lệ sống không tái phát bệnh (RFS) được xác định là thời gian từ ngày bắt đầu được chọn ngẫu nhiên cho đến ngày bị tái phát bệnh hoặc tử vong vì bất cứ nguyên nhân gì.
    Glivec đã kéo dài một cách đáng kể RFS với 75% số bệnh nhân không bị tái phát bệnh cho đến 38 tháng trong nhóm dùng Glivec so với 20 tháng trong nhóm dùng giả dược (CI 95%, [30 bệnh nhân không đánh giá được ở nhóm dùng Glivec và 14 bệnh nhân không đánh giá được ở nhóm dùng giả dược]); (tỉ số nguy cơ = 0,398 [0,259 đến 0,610], p < 0,0001). Sau một năm RFS nói chung tốt hơn đáng kể ở nhóm dùng Glivec (97,7%) so với nhóm dùng giả dược (82,3%), (p < 0,0001) do đó làm giảm nguy cơ tái phát bệnh khoảng 89% so với giả dược (tỉ số nguy cơ = 0,113 [0,049 đến 0,264]).

    Một nghiên cứu pha III thứ cấp biết tên thuốc (SSG XVIII/AIO) so sánh việc điều trị bằng Glivec 400 mg/ngày trong 12 tháng so với điều trị trong 36 tháng ở bệnh nhân sau phẫu thuật cắt bỏ GIST và một trong số sau: đường kính khối u > 5 cm và chỉ số phân bào > 5/50 trong quang trường có độ phóng đại cao (HPF); hoặc đường kính khối u > 10 cm và bất kỳ chỉ số phân bào hoặc khối u với kích thước bất kỳ có chỉ số phân bào > 10/50 HPF hoặc khối u vỡ trong khoang phúc mạc. Tổng số 397 bệnh nhân đồng ý và được chọn ngẫu nhiên để nghiên cứu (1 nhóm gồm 199 bệnh nhân điều trị 12 tháng và 1 nhóm gồm 198 bệnh nhân điều trị trong 36 tháng), tuổi trung bình là 61 (khoảng từ 22 đến 84 tuổi). Trung vị thời gian theo dơi là 54 tháng (từ ngày chọn ngẫu nhiên đến ngày khóa dữ liệu), với tổng số 83 tháng từ lúc chọn ngẫu nhiên bệnh nhân đầu tiên đến khóa dữ liệu.

    Kết cục chính của nghiên cứu là thời gian sống thêm không tái phát bệnh (Recurrence Free Survival - RFS) được định nghĩa là thời gian từ ngày chọn ngẫu nhiên đến ngày tái phát hoặc tử vong do bất cứ nguyên nhân nào. Ba mươi sáu (36) tháng điều trị Glivec kéo dài RFS đáng kể so với 12 tháng điều trị bằng Glivec (với Tỉ lệ nguy hiểm toàn bộ (Hazard Ratio – HR = 0,46 [0,32; 0,65], p<0,0001 và HR = 0,42 [0,28; 0,61] sau tháng 12) (Bảng 8, Hình 3). Có tổng số 84 (42%) và 50 (25%) trường hợp RFS cho nhóm 12 tháng và 36 tháng.

    Ngoài ra, ba mươi sáu (36) tháng điều trị bằng Glivec kéo dài có ý nghĩa thời gian sống thêm toàn bộ (Overall Survival – OS) so với nhóm điều trị bằng Glivec trong 12 tháng (HR=0,45 [0,22; 0,89], p=0,0187) (Bảng 8, Hình 4). Tổng số người chết là 25 trong nhóm điều trị 12 tháng và 12 trong nhóm điều trị 36 tháng.

    Nghiên cứu lâm sàng trên bệnh DFSP
    Một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II, đa quốc gia, biết rơ tên thuốc (nghiên cứu B2225) đã được tiến hành dùng Glivec cho các nhóm bệnh nhân khác nhau bị các bệnh đe dọa tính mạng liên quan đến ABL, KIT hoặc PDGFR protein tyrosine kinase. Nghiên cứu này bao gồm 12 bệnh nhân bị u sarcom xơ da trong tổng số 185 bệnh nhân, 45 người trong số này bị các bệnh về máu và 140 người có khối u đặc các loại. Chứng cứ chính về hiệu quả đối với bệnh nhân ở nhóm khối u đặc dựa trên tỷ lệ đáp ứng mục tiêu. Nhóm khối u đặc được điều trị bằng Glivec 800 mg/ngày. Tuổi của các bệnh nhân bị u sarcom xơ da từ 23 đến 75 tuổi, bệnh u sarcom xơ da đã di căn, tái phát tại chỗ sau phẫu thuật cắt bỏ ban đầu và không được xem là có thể đáp ứng với phẫu thuật cắt bỏ thêm vào thời điểm nghiên cứu. Đã có báo cáo thêm 6 bệnh nhân bị u sarcom xơ da được điều trị bằng Glivec trong 5 báo cáo ca bệnh đã được công bố, tuổi của các bệnh nhân này từ 18 tháng đến 49 tuổi. Tổng số trường hợp của nhóm được điều trị u sarcoma xơ da gồm 18 bệnh nhân, 8 trường hợp bệnh đã di căn. Những bệnh nhân người lớn được báo cáo trong y văn đã công bố được điều trị Glivec 400 mg/ngày (4 trường hợp) hoặc 800 mg/ngày (1 trường hợp). Bệnh nhân trẻ em được dùng 400 mg/m2/ngày sau đó tăng đến 520 mg/m2/ngày. Đáp ứng với điều trị được mô tả trong Bảng 9.
    12 trong số 18 bệnh nhân này hoặc đã đạt được đáp ứng hoàn toàn (7 bệnh nhân) hoặc được điều trị khỏi bằng phẫu thuật sau khi đáp ứng một phần (5 bệnh nhân bao gồm 1 trẻ em) đối với tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 67%. Thêm 3 bệnh nhân đã đạt được đáp ứng một phần đối với tỷ lệ đáp ứng nói chung là 83%. Trong số 8 bệnh nhân có bệnh đã di căn, 5 người đã đáp ứng (62%), 3 người đáp ứng hoàn toàn (37%). Trung vị thời gian điều trị trong nghiên cứu B2225 là 6,2 tháng, với thời gian tối đa là 24,3 tháng, trong khi trên y văn đã công bố thời gian này khoảng từ 4 tuần đến hơn 20 tháng.

    Nghiên cứu lâm sàng trong suy giảm chức năng gan
    Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân có các mức độ rối loạn chức năng gan khác nhau (nhẹ, trung bình và nặng - xem Bảng 10 dưới đây về xếp loại chức năng gan), sự tồn lưu imatinib trung bình (diện tích dưới đường cong nồng độ (AUC) ở liều bình thường) không tăng so với bệnh nhân có chức năng gan bình thường. Trong nghiên cứu này, liều 500 mg/ngày là an toàn để sử dụng cho bệnh nhân rối loạn chức năng gan nhẹ và 300 mg dùng cho các bệnh nhân khác. Mặc dù chỉ có liều 300 mg/ngày được sử dụng cho bệnh nhân bị rối loạn chức năng gan trung bình và nặng, phân tích dược động học cho thấy 400 mg có thể an toàn để sử dụng (xem phần LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG, CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG, TÁC DỤNG NGOẠI Ý và DƯỢC ĐỘNG HỌC).
    .............

    Gleevec được chấp thuận để điều trị ung thư dạ dày


    Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA), ngày 1/2, vừa cho phép sử dụng Gleevec, thuốc chống ung thư máu đầy triển vọng, trong điều trị một dạng ung thư dạ dày - ruột ở giai đoạn cuối của bệnh (không thể phẫu thuật hoặc đã có di căn).
    Thuốc Gleevec 400mg chống ung thư chính hãng Novartis giá tốt ! 0122 456 0122
    Thuốc Gleevec được dùng mỗi ngày một viên.

    Nghiên cứu dùng Gleevec để điều trị cho 147 bệnh nhân bị một dạng ung thư dạ dày - ruột có tên GIST, với khối u không thể cắt bỏ, cho kết quả:
    - 38% giảm kích thước khối u ít nhất là một nửa.
    - 59% lui bệnh.
    - 75% có những cải thiện rõ rệt.
    Sau điều trị, nhiều bệnh nhân nặng đã có thể đi lại và cảm thấy khỏe khoắn. Một số người đi làm trở lại và có cuộc sống bình thường. Trước khi điều trị, một số bệnh nhân từng có khối u nặng tới 9-11,5 kg và tưởng đã hết hy vọng.
    Hiệu quả phụ được ghi nhận thường là nhẹ đến trung bình, và gồm: giữ nước, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nổi ban trên da, đau cơ, ngộ độc gan và giảm số lượng tế bào máu.

    Gleevec
    Gleevec là thuốc chống ung thư thế hệ mới, vừa được FDA chấp thuận lần đầu tiên hồi tháng 5 năm ngoái để điều trị một dạng đặc biệt của bệnh bạch cầu ở người lớn (bệnh bạch cầu mạn thể tủy). Thuốc có ưu điểm là chỉ tấn công và tiêu diệt các tế bào ung thư mà không động đến các tế bào lành. Đặc tính này giúp tránh được những hiệu quả phụ nguy hiểm mà các thuốc chống ung thư thông thường gây ra.
    Hãng Novartis, nhà sản xuất Gleevec, cũng đang đệ đơn yêu cầu Liên minh châu Âu và Thụy Sĩ chấp thuận cho sử dụng thuốc để điều trị ung thư dạ dày - ruột như Mỹ.

    Ung thư dạ dày - ruột
    Bệnh GIST chiếm 2% các khối ung thư ở bụng. Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 5.000 người được chẩn đoán mắc bệnh này. Nếu phát hiện sớm, khối u sẽ được phẫu thuật cắt bỏ, nhưng bệnh vẫn hay tái phát. Phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng. Một số thấy bụng sưng to hoặc có cảm giác đầy ở dạ dày. Khi kiểm tra, bác sĩ thường tìm thấy những khối u lớn, rất ít đáp ứng với hóa trị và xạ trị. Bệnh nhân thường tử vong sau 2 năm.
    Hãng Novartis cho biết, họ đang tiếp tục nghiên cứu sử dụng thuốc Gleevec trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi tế bào nhỏ và một dạng hiếm gặp của ung thư não.


    Thuốc Gleevec 400mg chống ung thư chính hãng Novartis giá tốt ! 0122 456 0122 - 1

    Thuốc Gleevec 400mg chống ung thư chính hãng Novartis giá tốt ! 0122 456 0122 - 2

    Website bán :
    http://www.universaldrugstore.com/medications/Gleevec/400MG#disclaimer

    Thông tin về thuốc:
    http://vnexpress.net/gl/suc-khoe/2002/02/3b9b8eed/
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/2/16
  2. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bán thuốc điều trị ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột chính hãng Novartis giá tốt ....
     
  3. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bán thuốc Gleevec 400mg chính hãng Novartis .... Up lên top cho người cần dùng ....
     
  4. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    Thuốc điều trị ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột ......
     
  5. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    thuốc Gleevec 400mg chính hãng Novartis giá tốt ... Top .. Up ... Top ....
     
  6. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    Thuốc Gleevec 400mg điều trị ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột chính hãng Novartis ... Lên top...
     
  7. Xem thêm bình luận
  8. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    Đầu tuần lên top cho người cần dùng .... Top ....
     
  9. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bay cao cuối tuần .... Up ... Top .... Up ....
     
  10. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    ngày mới lên cho người cần dùng ...........
     
  11. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    thuốc điều trị ung thư chính hãng Novartis giá tốt !!!!
     
  12. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bay cao lên top cho người cần dùng ............
     
  13. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    Bay cao cho người cần dùng ..... Top ........ Up .........
     
  14. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bay cao lên top cho người cần dùng ........... Up ............
     
  15. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    lên top cho người cần dùng ............... Top ............
     
  16. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    lên top ngày mới cho người cần dùng ..............
     
  17. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    thuốc điều trị ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột ....
     
  18. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    lên cho buổi trưa nắng nóng ..... top ..........
     
  19. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bay caooooooooooo ........ cho người cần dùng ............
     
  20. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    up lên top cho người cần dùng .............. top ............
     
  21. hieuhien789 Thành Viên Kim Cương

    bay cao buổi chiều ................. lên cao ........
     

Chia sẻ trang này

Tình hình diễn đàn

  1. giao1234,
  2. TrangAnhDoji
Tổng: 792 (Thành viên: 2, Khách: 777, Robots: 13)