Tìm kiếm bài viết theo id

Vùng đất thánh linh

Thảo luận trong 'Chuyện trò' bắt đầu bởi denhatkiem, 5/3/09.

ID Topic : 766739
Ngày đăng:
5/3/09 lúc 17:47
  1. denhatkiem Thành Viên Cấp 4

    Tham gia ngày:
    26/8/08
    Tuổi tham gia:
    15
    Bài viết:
    1,527
    Xin mạn phép sư huynh DaiHongCat cho đệ được post bài của huynh ở diễn đàn này cho mọi người được đọc.

    Vùng đất thánh linh
    DaiHongCat
    Có nhiều con đường để đi đến Cát Tiên.
    Dễ nhất là đi từ Madaghui, qua Đạ Huoai, Đạ Tẻh theo con đường mòn đất đỏ, khá quanh co…..là đến huyện lỵ Cát Tiên, trung tâm của vùng Nam Cát Tiên. Có thể đi bộ hoặc xe gắn máy, chủ yếu là xe Honda 67, xe Simson hoặc xe Min-khờ (Minsk). Con đường này trống trải, ngắm được nhiều phong cảnh đẹp. Nhiều đoạn đèo một bên là đồi núi, một bên là sông suối, có những đoạn hai bên đường toàn cây tùng, giáng hương, mùi thơm ngút ngát, tán lá xanh um….Buổi sáng đi thì đến trưa là đã tới, lúc đó là có thể ngồi ung dung tại chợ mà xơi thịt chó, uống rượu ịch. Cũng có thể là đi từ Đồng Xoài, xuyên qua vài cánh rừng thưa với những đồng cỏ cao rộng mênh mông, qua phà Đaclua là đến thị trấn Đức Phổ, từ đây đi thẳng một mạch là đến huyện Cát Tiên hoặc Gia Viễn. Một con đường nữa là từ Định Quán đi lên, qua một vài cánh rừng cao su, rừng ngập nước khá rậm rạp, nhiều rừng tre gai lớn…. Đoạn đường này nguy hiểm nhất là lúc vượt thượng nguồn sông Đồng Nai, nước chảy rất xiết, nhiều chỗ có xoáy ngầm, bờ sông luôn sạt lở, nếu chủ quan có thể bị vùi lấp không lên được . Lòng sông lại có rất nhiều đá nhọn, ngoài ra còn có một loại cá dữ gọi là cá Lăng, có râu, dài hơn 1m, nặng cả trăm ký, có thể táp ẩu làm bạn bị thương. Đi theo con đường này phải mất ước chừng nửa tháng nhưng có thể kiếm được ít mật ong rừng hảo hạng, năm bảy búp măng non hay vài nhành phong lan cực đẹp.
    Con đường cuối cùng là đi từ thị trấn Giai Nghĩa - Đăknông, xuyên qua rừng già thuộc tỉnh Lâm Đồng. Con đường này là gian nan nhất, là con đường của dân đi tìm Kỳ Nam, Trầm Hương, dân đào vàng, săn trộm…..Phải đi qua rừng rậm, thác nước, đồi núi, có khi chạm trán với thú dữ, funlro, buôn lậu, lâm tặc….tất nhiên là vô cùng nguy hiểm. Với điều kiện là bạn phải còn mạng thì sau khoảng hai tháng cũng có thể ung dung ngồi tại chợ Cát Tiên mà xơi thịt rừng, uống rượu cần chính hiệu…..


    Hôm đó ĐHC đang ngồi uống cà phê trong một cái quán nhỏ thuộc ngã ba Phù Mỹ thì thấy hai chiếc môtô chở bốn người dừng trước quán. Ngay lập tức mọi sự chú ý đều tập trung về họ, bởi vì hai chiếc xe quá lớn. Hai chiếc Harley davision 750 phân khối to sụ, sáng loáng, mỗi chiếc dài phải đến hai mét rưỡi choán hết cả cửa ra vào. Cũng may là ĐHC đã chọn một chỗ ngồi tít phía trong, bên ngoài nhìn vào không thấy, chứ bốn người này đâu có gì xa lạ…..nhưng không hiểu sao họ lại xuống tận nơi này ?
    Người đi đầu mặc cái áo hoa hòe bằng lụa, ở vùng Chợ Lớn ai mà không biết. Mọi người chỉ gọi ông ta đơn giản là “Tàu xì”, ông chủ của vài chục cái quán cơm, nhà hàng, khách sạn.…mà ĐHC nhớ không lầm thì cái vũ trường nổi tiếng nhất của ông ta thời đó từ ngòai cổng đi vào là cả mấy chục em mặc sườn xám dàn hai bên đón tiếp, tiền vào cửa để “dằn phèn” là đã hết năm chai rồi, chưa kể vào đến bên trong còn phải tốn bao nhiêu nữa…?! “Tàu xì” thuộc típ “tai to mặt lớn”, người đeo vàng chói lọi, trên cổ là một “cọng thừng” phải hơn mười lượng, mười ngón tay đeo mười chiếc nhẫn vàng to như con đỉa, cái đồng hồ Rolex cũng màu vàng chói…..Đúng là một ông thần tài vàng rực. Đi bên cạnh “Tàu xì” lúc nào cũng là “a Chảy”, y dáng cao, gầy, mũi khoằm như cú vọ, mắt sáng như cú vọ. Lúc nào “a Chảy” cũng mặc bộ đồ “sá sẩu” bằng gấm trắng, bên trái thêu con rồng đang múa vuốt, bên phải là hàng chữ “sinh tử tại thiên” bay bướm, biểu tượng của một “đại ca” chính hiệu. Hôm nay có lẽ do phải đi rừng nên y lượm đâu được cái áo thun đen vận với cái quần bò nom rất chật. Người VN bình thường mà ngồi lên chiếc Harley thì chẳng khác nào con nhái bén ôm…..quả bí đao, nhưng khi “Phì Lủ” ngồi lên thì chiếc xe cảm giác như hãy còn quá nhỏ. Y nổi tiếng là đần độn ngu si vô địch thiên hạ….nhưng được bù lại là có một tấm thân bồ tượng và một sức khỏe phi thường. “Phì Lủ” đích thực là em của “Tàu xì”, nhưng có lẽ tinh hoa trong nhà đã dồn hết vào thằng anh rồi nên đến thằng em thì chỉ còn….cái cặn. Vì vậy mang tiếng là đại gia nhà giàu nhưng “Phì Lủ” vẫn không biết chữ, lúc nào cũng mặc áo phạch ngực và quần rách đái. Đến người thứ tư thì bất giác ĐHC phải ngồi nép tuốt vào phía trong vì y quen quá. “a Lưu” chứ nào phải ai xa lạ. Có lần ĐHC đang uống cà phê ở nhà hàng Vân Cảnh, bên bến Bạch Đằng thì có người vỗ vai gọi “tài có à, hôm nay lên đây hóng mát…có còn nhớ ngộ không ?” bất giác nhìn lên thì thấy một anh chàng tóc tai láng mướt, mùi dầu thơm sực nức, bộ đồ vô cùng chải chuốt…..té ra là “a Lưu”. Cô bồ “a Lưu” làm quản lý nhà hàng nên hằng đêm y phải ghé đón về….Hôm nay y cũng không có gì thay đổi, đầu tóc, quần áo….vẫn láng cóng, chưa vô tới cửa là mùi dầu thơm đã xuống tận nhà bếp rồi. Nghe đồn y đang làm nghề môi giới mua bán nhà đất…kiếm tiền rất khá, không hiểu sao lại khăn gói theo “Tàu xì” lên tận trên này.
    Ở cái vùng đất heo hút này mà đi xe Harley, ăn mặc diêm dúa, đeo vàng chói lọi như vậy thì chẳng khác nào vỗ ngực tự xưng “ta là ông cóc, ông kẹ đây”, chắc chắn sẽ lọt vào tầm ngắm của hình sự địa phương ngay…. “Tàu xì” đâu có ngu dại gì mà lại làm thế. Hiển nhiên y cố tình làm vậy để dằn mặt một kẻ nào đó, một bọn nào đó…..Mấy ông chủ Tàu Chợ Lớn mà quan tâm đến cái vùng Cát Tiên heo hút này thì chắc là nơi đây đang ẩn chứa một bí mật gì ghê gớm lắm……


    Lúc đó là mùa thu họach trái Lười ươi, vào mùa này vùng Cát Tiên nhộn nhịp hẳn lên. Đầu nậu, bạn hàng, dân đi hái thuê, dân đi hái trộm….tụ về tấp nập làm các hàng quán cũng được mùa thu họach. Tinh hoa của trái Lười ươi là nằm ở cái hạt, hạt này khi bỏ ngâm vào nước thì nó nở lên to bằng cái tô vậy….thứ hạt này uống rất mát, có tính nở to kỳ lạ như vậy nên nhiều công ty mua nó rồi xuất khẩu đi nước ngoài làm thuốc gì đó…..nó trở nên có giá là vì thế.
    Bọn “Tàu xì” ăn uống một hồi rồi lên xe đi mất, trong lúc ăn họ trao đổi bằng tiếng Quảng nên không nghe được gì. Được một lúc thì có một chiếc xe Min-khờ chở một bà chủ hàng trờ đến. Bà chủ hàng bước vào làm cả quán trở nên sáng hẳn, quả thật bà ta nom rất sáng tài. Đúng ra phải gọi bằng cô thì mới phải vì bà chủ còn khá trẻ, mới thuộc hàng hăm, cô ta mặc cái quần lãnh đen, cái áo thun trắng, bên ngoài khoác hờ cái áo sơ-mi màu cam rực rỡ. Cô ta vừa ngồi xuống, để cái nón lá lên bàn là bà chủ quán lăng xăng chạy tới, họ xem ra rất đỗi quen thuộc. Cô ta nói “ đ.m….từ sáng đến giờ chạy kiếm thằng bảy mà không được….nguyên chiếc xe hàng bị kiểm lâm ách lại tại Madhagui…”. Cô ta trắng trẻo, xinh xắn, chỉ phải cái mở miệng ra toàn nói tiếng…Đan mạch. Nói một hơi không nghỉ, uống một hớp nước xong quay nghiêng lại thấy ĐHC đang cười cười thì hơi mắc cỡ, phân bua tiếp “…em cực quá mấy anh thông cảm,…gom được mấy bao hàng chở ra tới ngoài lộ thì bị ách lại…đang kiếm anh Bảy để nhờ ảnh lo dùm…”

    Buổi tối, ĐHC về nhà của anh H, một giáo viên tiểu học nghỉ tạm. Gọi là nhà cho oai chứ nó chỉ là một cái lều dựng tạm. Anh H muốn ở trong trường cũng được nhưng anh thích ở bên ngoài cho thoải mái hơn. Anh là người Huế, tốt nghiệp CĐSP Huế, sau đó xung phong đi dạy ở vùng sâu vùng xa. Anh ở trên này đã được khoảng hơn hai năm. Sáng hôm sau, vừa ngủ dậy, chưa kịp súc miệng thì đã nghe tiếng xe máy dừng trước cửa, ló vào là một cái đầu bóng mượt kèm theo mùi dầu thơm bát ngát…..cái mặt “a Lưu” hiện ra nhăn nhở “Hôm qua ngồi trong quán mà tài có núp nhé, làm sáng nay “Tàu xì” pắt ngộ phải đi từ sáng….” Xem ra bọn “Tàu xì” thông tin nhanh thật, chắc y đã rải quân khắp vùng Cát Tiên này.
    “a Lưu” chở ĐHC trên chiếc Min-khờ phóng đi vèo vèo. Ở vùng này đi Min-khờ là tốt nhất, qua đèo dốc, hố bom, mương rãnh….ào ào, có lỡ rớt xuống ao thì kéo lên cũng dễ. Đại bản doanh của bọn “Tàu xì” ở tuốt cuối chợ Madhagui, phải đi xuyên qua một cái tiệm tạp hóa, hai ba lớp cửa, vòng vèo lên tận trên lầu hai. Đứng gác trước cửa là “Phì Lủ”, mới sáng sớm mà trên tay y đã cầm một thau xí quách to xù, y phải ăn liên tục như vậy thì may ra mới đủ năng lượng để duy trì cái thân hình bồ tượng. Thấy ĐHC “Phì Lủ” nhe răng ra cười “ ngộ li lâu cũng gặp lị….hế…”.
    Căn phòng tuy nhỏ nhưng cũng được sắp xếp rất sang trọng, đúng típ đại gia “Tàu xì”. Y khoái màu đỏ nên chổ nào trong phòng cũng đỏ lòe lòe, dưới chân cũng trải một tấm thảm Ba Tư đỏ đi êm không thể tả….Giữa phòng là một cái bàn đen bóng, trên có để một con rồng bằng pha lê đỏ nom rất đẹp. Không thấy “a Chảy”, ngoài “Tàu xì”, còn có thêm hai người nữa. Ngồi ngoài bìa là “a Hỏa”, một võ sư có tiếng trong một đội Lân Sư Rồng tầm cỡ ở Chợ Lớn. Y có thể dùng tay không đập bể trái dừa khô, múa quyền đi trên miểng chai hay nằm trên bàn chông, cho người để mấy tảng đá xanh lên rồi dùng búa đập bể. Nghe nói võ sư T.T đã mất, “a Hỏa” là đại đệ tử nên lên thay làm chưởng môn cả một tông phái, không biết y chịu ân nghĩa gì của “Tàu xì” mà hôm nay cũng có mặt ở đây. Người ngồi trong cùng nom rất tà đạo, mặt choắt, mỏ nhọn, ở trong nhà mà cũng mang kiếng đen. “Tàu xì” giới thiệu y tên “Kây Quay” ở Hồng Kông mới qua, pháp thuật rất cao cường. Để chứng minh “Kây Quay” xòe bàn tay ra, ngay lập tức từ trong ống tay áo của y phóng ra một con rắn….Con rắn này có vảy ánh kim loại bảy màu lấp loáng, to bằng cỡ cổ tay nhưng chỉ ngắn độ bốn tấc. Nó thuộc họ rắn hổ cực độc, cực hiếm gọi là con rắn “ hổ Bướm”. Con “ hổ Bướm” tuy ngắn như vậy nhưng nó phóng đi lại cực nhanh, vô phúc ai bị con rắn này cắn bước đi được một bước mà không trào đờm té lăn mới là chuyện lạ. ĐHC trông thấy là đã rùng mình ớn lạnh, tay Pháp sư này chắc thuộc dòng Miêu cương ngũ độc trùng gì đây…. Không biết trên người y còn có bò cạp, nhện độc gì nữa. Con rắn uốn éo xung quanh cổ tay, cuộn tròn trong lòng bàn tay rồi ngóc đầu lên khè nom rất dữ, sau đó thoắt một cái nó lại chui vào trong tay áo, biến mất. “Tàu xì” không rào đón gì cả, y đi ngay vào việc “ Ngộ nghe “a Lưu” nói nị có cái tài đào hầm hố….cuốc mồ mả gì đó, tìm những vật báu hay lắm…..”. Đại khái theo như “Tàu xì” kể thì một đại gia ở tận HKcó sưu tầm được một cổ vật cực quý là một cái mâm đồng, có đường kính đúng 7 tấc 7 ly, trên chạm trổ hoa văn rất công phu. Nhưng đặc biệt là nó có khắc chìm hình mặt trời với bảy tia sáng, đúng giữa trưa khi phản chiếu lại ánh sáng nó sẽ rực lên rất chói lọi. Phía sau mâm đồng có khắc chữ phạn cổ phải mang sang tận Ấn Độ mới có bậc thầy đọc được. Thì ra nó là một báu vật của một vương quốc cả hàng ngàn năm trước, trên đó có một câu thần chú uy lực vô cùng mà ai làm chủ được nó thì sẽ có quyền lực không gì cản nổi….Nhưng đáng tiếc câu thần chú này mới chỉ có một nửa, nửa còn lại nằm ở một cái mâm đồng y hệt như vậy, nhưng cái mâm này lại khắc hình mặt trăng với bảy ngôi sao. Hai cái mâm đồng này là một cặp “Nhật Thất Kim Quang Minh Nguyệt Thất Tinh Kỳ Bảo” quý giá vô cùng….tay đại gia HK đã cho người truy tầm khắp Mã Lai, In do, Thái, Lào….mà cũng không thấy cái mâm còn lại. Bọn “Tàu xì” cả năm nay tìm kiếm khắp Tây Nguyên, Buôn Mê, Đăklắc, Đắkmin, Đắknông….KrôngPa, KrôngPắc.v.v…. cũng không ra, nghe một nguồn tin nói là nó đang có ở vùng Nam Cát Tiên này…..
    “Tàu xì” lực lượng hùng hậu như vậy thì cần gì nhờ đến ĐHC, chẳng qua là y muốn dằn mặt “…báu vật tuy còn ở trong rừng, trong núi, dưới đất sâu…nhưng “Tàu xì” mà đã chấm rồi thì coi như là đã của “Tàu xì” rồi đấy…đứa nào mà dám rớ vào thì hãy liệu hồn…”.
     
  2. TuấnSG Thành Viên Cấp 4

    Bài hay , thanks denhatkiem đã post cho anh em tham khảo .
     
  3. denhatkiem Thành Viên Cấp 4

    Câu chuyện mà “Tàu xì” kể thiên hạ đã biết từ lâu. Năm ngoái, có lần Lạc “mả” tìm đến, y nói “nhà bác có biết chuyện người ta kéo nhau lên Tây Nguyên tìm một cái mâm gì đó quý lắm không ?”- ĐHC giả bộ nói không biết, Lạc “mả” nói tiếp “nghe đâu mấy tỉ phú Ma Cao, Hồng Kông ra giá cả triệu đô cho ai tìm được”. Y tỏ ra rất hăm hở, rủ thêm mấy người nữa kéo nhau đi lên Tây Nguyên, cho đến bây giờ cũng không nghe thấy tin tức gì. Xem ra những chuyện gọi là bí mật ở xứ sở này thì…..cả làng đều biết.
    Cách đây khoảng ba tháng, NT đến tìm ĐHC, anh nói “Có người đặt hàng mình phi vụ này, nếu thành công thì đủ sống cả mấy đời, chú tham gia với anh nhé” – NT là người có cuộc đời rất lận đận, anh trước là hạ sĩ quan chế độ cũ. Sau giải phóng phải đi cải tạo đâu khoảng hơn ba năm. Khi trở về thì vợ đã bán nhà, dắt con đi vượt biên từ lâu. Người thân thì cũng đã đi hết cả, lớp đi vượt biên, phần đi KTMới….NT đâm ra bơ vơ “không mảnh đất cắm dùi”, phải làm đủ nghề để kiếm sống. Khoảng thời gian này cuộc sống còn khó khăn lắm chứ chưa được như bây giờ, qua vài người quen, anh ta gặp ĐHC cùng theo cái nghề “nguy hiểm chết người” này. anh ta làm chung với ĐHC được chừng hơn năm thì tách ra “chiến đấu một mình”. Kinh nghiệm chiến trường chưa nhiều, lại hay tin người, được mấy tháng thì NT bị lượm trên Long Bình, phải bóc lịch hơn một năm rưỡi,….Trở về, NT ra sửa xe đạp ở lề đường ND. Một lần anh đến rủ ĐHC làm vài xị giải sầu, cả hai ngồi ở cái quán cóc nhỏ bên lề đường, nghe tâm sự thì ra cái máu liều trong người NT vẫn còn rất mạnh, anh ta muốn làm một cú ra trò để đổi đời, “nở mày nở mặt với bà con thiên hạ”. Lúc đó trời mưa rất to, trong cái tâm trạng cô đơn mà nhìn mưa Sài Gòn thì đúng là “rầu thúi ruột”. NT quyết tâm bằng mọi giá phải làm cho được vụ này “hoặc có tất cả, hoặc không có gì…”. ĐHC thấy anh hăng hái như vậy thì cũng không nỡ từ chối, hơn nữa ở vùng đất thánh linh này đâu hẳn chỉ có mấy cái “mâm đồng”…….?!.
    -----------------------------------
    Đêm trên cao nguyên thật lạnh, ngủ không được, ĐHC , NT, một người thượng là Y-Ngây, cả ba kéo ra trấn Giai Nghĩa uống vài xị cho ấm bụng. Mới hơn 10h mà hàng quán đóng cửa hầu hết, chỉ còn lại một quán chịu bán khuya cho giới xe ben, xe tải… Cả ba chọn một chỗ ngồi hơi khuất phía trong, bên ngòai cũng còn vài bàn của cánh lái xe cùng mắc chung một thứ bệnh là “ngủ không được”. ĐHC ngồi đối diện cái bàn bida, phía góc trong có cái bồn rửa tay, trên có một tấm kiếng, từ chỗ này có thể quan sát phía sau mà không cần phải quay người lại. Y-Ngây khoái món nai nướng nên anh ta ăn rất khí thế, uống cũng không hề khách khí. Là người Hơ-Mông nhưng Y-Ngây nói được tiếng Kinh, anh là một thợ săn cừ khôi, chỉ cần một cái ná, một cái áo mưa, một cái Xà-gạt là Y-Ngây có thể xuyên rừng, vài ngày là đem về một hai con mang hay mển….. Y-Ngây còn có một người em là Y-Ngung nhưng hôm nay anh ta còn ở ngoài rừng.
    Càng về khuya trời càng trở lạnh, gần đến nửa đêm thì nghe tiếng xe dừng, có bốn người lừng lững đi vào trong quán. Nhìn qua cái kiếng, ĐHC nhận ra bọn người này là dân đào vàng chuyên nghiệp, bây giờ chuyển sang nghề săn trộm, tìm trầm hương, kỳ nam và đồ cổ. Đi trước là hai anh em Lý Hòa, Lý Cắt, kẻ đi thứ ba đặc biệt nguy hiểm tên Tăng Xe, đi cuối là đệ tử của y cỡ 17 –18 tuổi tên Út Lỳ. Út Lỳ có tên tuổi, bố mẹ, nhà cửa đàng hoàng, nhưng đua đòi bỏ nhà đi hoang mấy năm nay, vận khí xui xẻo, ra đời gặp ngay đại ca Tăng Xe, nhanh chóng bị tên này nhuộm thành đen thui, thêm bản tính lỳ lợm nên có biệt danh là Út Lỳ. Bọn Lý Hòa vừa từ trên Đắcmin về, có khả năng sẽ đi về Nam Cát Tiên theo đường rừng Lâm Đồng…. Lý Hòa là thợ rừng chuyên nghiệp nên chuyện xuyên rừng đối với y là chuyện nhỏ.
    NT xem ra đã ngà ngà say, anh ta lại nhớ về quá khứ, cặp mắt trở nên lờ đờ…..miệng lầm bầm hát nho nhỏ “ Buồn nào hơn đêm nay, buồn nào hơn đêm nay, khi ngoài kia bão tố đầy trời… Từng cánh lá cuốn gió rơi vào lòng đêm thâu, thương thầm mối tình ngâu….. Ngày về ôi xa quá cánh nhạn còn miệt mài trong nắng hồng mê say. Cuộc đời là hư vô, bôn ba chi xứ người khi mình còn đôi tay…..”


    Chỉ cần nhìn đồ nghề mang theo là có thể biết khả năng đi rừng như thế nào. Ví như anh em Y-Ngây, Y-Ngung thì chỉ cần cái Xà-gạt, cái ná, thêm cái áo mưa nữa là có thể xuyên rừng hàng tháng rồi. Rừng chính là nhà của họ, bàn chân của Y-Ngây đạp trên đá nhọn, gai rừng nghe sạt sạt, lớp chai nó dày cả phân chứ không ít. Anh ta bình thường đóng khố, cổ đeo một cái kiềng to, lỗ tai xỏ hai miếng ngà voi to sụ, hôm nay ra Giai Nghĩa nhậu “nai nướng” mới bận thêm cái quần vải gai….Còn Y-Ngung cũng như Y-Ngây, nhưng nói được tiếng Kinh rất ít, anh ta gọi người Kinh là Ka-Yuan. Con gái Y-Ngung được hai tuổi bỗng nhiên bị chết, cả bản làm đám, thầy cúng Y-Krăk làm lễ đàng hoàng. Sau đó 3 ngày, Y-Ngung nốc hết ba ché rượu cần, bỗng dưng nhớ con……nửa đêm anh ta ra mộ, đào xác con lên, sau đó ôm cái xác lạnh ngắt, đã bốc mùi về nhà, chuyện làm kinh động cả bản….Y-Ngung sau chuyện đó trốn ra ngoài rừng….
    Lý Hòa thì không cần nhiều đến như vậy, chỉ cần một con dao găm là có thể xuyên rừng được rồi. Y nổi tiếng đánh mìn và bộc phá ở các bãi đào vàng, nên trong người luôn có thuốc nổ. Còn Lý Cắt dáng cao gầy, leo trèo cực nhanh, đặc biệt là leo cao chót vót trên tận ngọn cây, y phóng chuyền nhanh như khỉ, rất lợi hại trong chuyện đi tìm trầm hương, kỳ nam, nấm quý…. Tăng Xe đi rừng không bằng hai người kia nhưng có tài bắn súng kíp thiện xạ, có thể dùng hai tay không bắt rắn, áp tai xuống đất nghe được tiếng động xa hàng vài cây số…Đồ nghề đi rừng của dân chuyên nghiệp thường chỉ là một cái mác hoặc rựa, dao găm, một “cây chẹt” nhỏ để lấy lửa khi cần thiết, áo mưa, có thể thêm dây thừng, móc sắt, võng dù….Đồ ăn, nước uống không cần mang theo vì có mang cũng không đủ cho những chuyến đi dài ngày.
    Y-Ngây kể cả năm nay có khá nhiều nhóm người xuống đây tìm cái mâm đồng, cồng chiêng thì anh ta biết nhiều chứ cái mâm đồng có khắc hình như vậy thì trong đời chưa từng thấy qua, cũng chưa nghe già làng nói đến bao giờ. Như vậy cái “mâm đồng” này chắc không phải của những tộc người như Ba-na, Ê-đê, Gia Rai, Hơ-mông….ở đây, mà là thuộc về những dân tộc đã xây nên vương quốc cổ Phù Nam ngày nào, họ có một nền văn hóa đã từng phát triển rực rỡ với những đền đài, thành quách, các công trình điêu khắc vĩ đại mà nay đã bị diệt vong. Cái “mâm đồng” nếu là có thật, thì nó có thể còn ở trong lòng đất, vùi chôn cùng với một đền đài nào đó….hoặc lẫn trong các tộc người còn sống ở vùng Nam Cát Tiên như X-Tiêng, Châu Mạ, K-Ho….Đám săn lùng đồ cổ tìm không ra cái “mâm đồng”, quay sang chôm chỉa Cồng Chiêng, Chum hũ, Cột nhà, Tượng thờ, Quần áo, Vật thờ cúng, Tượng nhà mồ… của người dân tộc để vớt vát lỗ lã. Bọn nào đàng hoàng thì còn trả tiền hoặc trao đổi bằng hiện vật, gặp bọn gian tà thì trộm cắp, lừa đảo….nhiều khi dẫn đến hiềm khích. Có khi xui xẻo trúng phải bùa ngải, thư ếm…. mang được báu vật về đến nhà thì lăn ra chết hoặc điên điên khùng khùng.
    Bọn Lý Hòa ngồi đến hơn hai giờ sáng thì rút đi, nghe nói trưa mai là sẽ khởi hành xuyên rừng xuống Nam Cát Tiên, trong lúc đi sẽ tìm kiếm thêm Trầm hương, Kỳ nam hay sừng Tê. Xem ra có quá nhiều băng nhóm tham gia vào cái vụ tìm “mâm đồng” này….Cái mâm chưa thấy đâu mà đã thấy có mùi kim tiền, mùi máu tanh sặc sụa rồi. Nếu có tìm được mà giữ được nó mang về cũng không phải chuyện dễ. Tìm được nó rồi mà cái mạng không còn thì cũng như không.
    Hôm ấy trăng sáng vằng vặc, từ trên con đường quốc lộ nhìn ra xa có thể thấy dãy Trường sơn mờ mờ. Đi trên cao cảm giác như có một biển mây chìm dưới chân bồng bềnh, bồng bềnh…..Trời đã gần sáng rồi, chim rừng đã bắt đầu thức dậy, hơi sương lạnh ngắt phủ từng lớp mờ mờ ảo ảo, gió cao nguyên đã bắt đầu thổi về từng đợt…


    Hồi đó ở trên Đăknông có một cái vườn mít bỏ hoang cực lớn, trải dài cả vài chục cây số. Mít ở đây ngon cực kỳ, có nhiều trái mít ướt to đến mức bốn năm người khiêng mới nổi. Từ cầu Đăktít cho đến tận Giai Nghĩa quạnh hiu không một bóng người, những bản dân tộc thì ban ngày họ cũng đi vào rừng hết cả, họ phá rừng, đốt rừng làm rẫy, xa hàng cây số cũng nghe tiếng tre nứa nổ lách tách. Chờ cho bọn Lý Hòa đi trước khoảng vài ngày, ĐHC cùng với anh em Y-Ngây, Y-Ngung, NT cũng trực chỉ lên đường. Bắt buộc phải đi xuyên rừng vì đây là con đường duy nhất mà các cánh khác chưa đi qua, may ra có khi tìm được những báu vật khác, biết đâu nó còn quý hơn cả cái “mâm đồng”. Khó có thể còn tồn tại cái mâm thứ hai, có được một cái cũng là một đại kỳ tích rồi…Trước khi đi, ĐHC có mua được một chai dầu xả tinh luyện của LLTNXP ở Đăknông, loại dầu này chỉ cần bôi lên người là các lọai côn trùng, rắn rít, bò cạp, kiến vàng, vắt tránh xa…mùi của nó có tác dụng làm tỉnh táo rất công hiệu. Anh em Y-Ngây, Y-Ngung thuộc đường rừng như lòng bàn tay….Có chỗ cần đi nhanh thì phải chạy hết tốc lực, có chỗ cần phải đi thật chậm để tránh hố sâu hay bẫy cài. Có lần tới một trảng cỏ, nhìn xa xa thấy cả một đàn bò rừng đen sì, lúc đó phải đổi hướng đi ngay….Có khi đi lẫn trong những trảng cỏ nắng như thiêu như đốt, nhìn ra xung quanh thấy lung linh mờ mờ ảo ảo, bất ngờ trảng cỏ phừng cháy làm cả bọn bốn người chạy như điên mới thoát khỏi. Nguy hiểm nhất là những lúc từ trên dốc núi dựng cả 60 độ lao xuống, nếu không cẩn thận có thể té lăn xuống gãy chân tay như bỡn. Khi vượt qua thác, cả bọn bốn người phải lấy mấy cái cây dài, vừa để chống, vừa để nương vào nhau mới đi qua thác được. Y-Ngây lâu lâu lại trổ tài săn mồi, có hôm anh ta săn được một con mển to tổ chảng, trước khi xả thịt anh ta quì xuống cúng Yàng, sau đó mới dùng dao lột da con thú, lóc thịt ra phơi đầy hết cả một cái áo mưa. Riêng cái đầu thì Y-Ngây đặt lên một tảng đá để cúng “con Ma rừng”. Nhiều khi đi qua những khu rừng lồ-ồ cao vời vợi, qua những khu rừng này cần phải cẩn thận với rắn và bò cạp. Bò cạp có con dài cả hơn gang tay, không để ý mà bị nó chích thì sốt nóng lạnh cả vài ba ngày. Nhưng bù lại là có rất nhiều măng non hay vô tình kiếm được cả một tổ ong ruồi. Mật ong rừng ăn một hồi là say ngà ngà như say rượu vậy, ăn vào rồi tự nhiên khỏe mạnh vô cùng, có thể nhịn ăn cả hai ba ngày được. Vừa đi vừa thăm dò, tìm kiếm, một hôm trong lúc vuợt qua một thác nước cao sừng sững, nhìn thấy một cái hang bị che khuất bởi những luồng nước, bèn chui vào xem thử. Cái hang này chắc chưa từng có người, bên trong thật là đẹp, nước chảy róc rách len theo các tảng đá. Cái hang sâu thăm thẳm, có những kẻ đá ánh sáng xuyên xuống, phản chiếu những tảng đá thạch anh trắng lung linh như kim cương. Tìm kiếm một hồi cũng không thấy có gì lạ…..
    Sau hơn một tháng đi liên tục thì đã gần tới đích, bất ngờ một hôm phát hiện một cái đồi trọc giữa rừng già, phía trên thấy một tảng đá cực lớn, phía dưới cơ man nào là gạch đá đổ nát… ĐHC và NT mừng quá, quên cả mệt nhọc leo một mạch lên đến đỉnh đồi…Đây chắc là một cái đền thờ cổ, còn nguyên mấy cái bậc đá, riêng phiến đá trên cùng mỗi bề phải đến sáu mét, nặng phải đến cả chục tấn. Phía trên còn một phiến đá nhỏ hơn giống hình cái Joni ….. không thấy cái Linga đâu, chắc nó đã bị gãy rơi đâu đó. Nếu cái Joni này to như vậy thì ước chừng cái Linga cũng phải cao tới ba bốn mét chứ không ít. Cái đền thờ này vô cùng vĩ đại…Đúng như vậy thì phiến đá này trấn lên trên cái hố thờ. Cũng vì nó to và nặng như vậy nên qua hàng ngàn năm nay có thể hố thờ vẫn còn nguyên vẹn…..
     
  4. chauminhkhanh Thành Viên Cấp 5

    hehe, cái này định post bên topic tui nè,...hên quá, đỡ khỏi post, để post truyện tiếp theo
     
  5. millionairevn Thành Viên Cấp 4

    post tiếp đi, đọc ghiền quá.
     
  6. tuananh_ytt Thành Viên Cấp 2

    post tiếp đi bác...em đọc mê luôn rồi
     
  7. denhatkiem Thành Viên Cấp 4

    Tối hôm đó, cả bọn nghỉ luôn ở trên đỉnh đồi. Trời đêm giữa rừng lạnh buốt, phải đốt lửa để sưởi, nhưng phải lấy áo mưa che khuất bớt để tránh tai mắt của những nhóm khác. Đêm nằm thao thức không ngủ được, có thể có nhiều nhóm đã phát hiện ra tảng đá này nhưng không biết có cái hố thờ bên trong hoặc do tảng đá quá nặng nên không dịch chuyển được. Nhiều khi trong đống gạch đá đổ nát cũng có thể còn che dấu những pho tượng nhỏ, những phù điêu..v.v….Sáng hôm sau, để hai anh em Y-Ngây và NT ở lại canh quả đồi, ĐHC tiếp tục đi….vài ngày nữa là tới huyện Cát Tiên rồi….Trên đường đi bắt đầu gặp khá nhiều người Kinh lẫn người Mạ. Ra tới con đường đất đỏ, ghé vào một cái quán tạm nghỉ uống nước, bất ngờ nhìn thấy nguyên một bộ Joni-Linga vứt lăn lóc trong xó nhà, bèn hỏi thì chủ quán nói đi làm rẫy ngoài rừng đào được rất nhiều. Sau đó ĐHC về trú tại nhà anh H, trong đầu luôn suy nghĩ cách nào để có thể dịch chuyển tảng đá khổng lồ kia ra được.
    Được ít hôm anh H cùng với ĐHC đi thăm già làng người Châu-Mạ. Đó là một ông già quắc thước, rất đẹp lão. Ông ta nói tiếng Kinh rất sõi, ĐHC đến đúng lúc ông đang ngồi cùng với một mục sư của nhà thờ Tin Lành….người Mạ bây giờ theo đạo Tin Lành rất nhiều, họ không còn tin vào con ma rừng nữa. Già làng người Mạ không hề nghe nhắc đến chuyện cái “mâm đồng” bao giờ…nhưng ông ta nói có thể những thầy cúng người Xtiêng sống trong rừng già sâu thẳm có thể biết những chuyện này. Già làng giới thiệu một người tên K-krok có thể dẫn ĐHC đi được.
    K-krork to cao, trên ngực đeo ba cái nanh heo rừng rất to, anh ta mắt đen, tóc quăn, môi dầy, da đen như lọ…..

    Thầy cúng Điêu-krắk nhìn cứ như con khỉ, không biết phải gọi là con khỉ dạng người hay con người dạng khỉ…?
    Người Xtiêng nói chung khá cao to, nhưng ông ta lại nhỏ choắt như đứa trẻ 12 – 13 tuổi, trên người bận mỗi cái khố phô bày một làn da đen nhẻm, lông lá xồm xoàm. Hai tay dài lòng khòng vung vẩy, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này qua tảng đá khác làm ông ta giống con khỉ hơn cả. Ông ta lại “cà răng, căng tai”, Cổ đeo nguyên một chuỗi nanh heo rừng, tay chân đều đeo vòng, trên mặt và thân mình xăm vằn vện nom càng dễ sợ.
    Để gặp được ông, K-krok phải dẫn ĐHC đi cả ngày trời, xuyên trong rừng già rậm rạp từ sáng sớm mà tới gần tối mới tới. Trên đường đi phải chèo xuồng qua vùng Bàu Sấu….Nơi này là một cái đầm lầy đầy cỏ lác, lau sậy rậm rạp, mênh mông và trù phú, trên thì đủ loại chim như vịt trời, cà kheo, hồng hòang, gà nước…….dưới thì đầy cá, rắn, rùa, kỳ đà, cá sấu…Có nguồn lương thực dồi dào như vậy nên lúc bấy giờ mấy bộ tộc người Châu Mạ, Xtiêng, Cơ Ho….. ở đây tranh giành lãnh địa đánh nhau loạn xạ. Người Kinh lúc bấy giờ trừ du kích ít ai dám bén mảng đến. Có K-krok dẫn đường nên khi gặp vài người dân tộc họ đều chào hỏi hoặc tránh xa vì anh ta là đệ tử của Điêu-krắk. Khi K-krok ngẫu hứng còn bắt một con nưa to đùng choàng qua người mà con vật không hề dám cắn. Anh ta kể từ nhiều năm nay chỉ ăn một thứ duy nhất là lá và rễ của một lọai cây ngải rừng nên trong người có mùi ngải độc, rắn, rít, côn trùng không bao giờ cắn. Thầy cúng Điêu-krắk cũng vậy, hàng chục năm nay ông ta cũng chỉ ăn có lá và rễ cây ngải rừng.
    Điêu-krắk rất dị ứng với “cán bộ người Kinh” nhưng vì có lới giới thiệu của già làng người Châu-Mạ và K-krok dẫn đường nên ông tỏ ra khá thân thiện. Từ khi có người Kinh, ông ta đã từ bỏ “nhà dài” mà trốn về ở trong một hang đá sâu hun hút, bên ngoài là những tảng đá ong được chất thành những hình thù kỳ dị, phía bên trong khá nhiều vật dụng với những hình vẽ kỳ quái. Có khách nên ông ta mới đốt một cây đuốc nhỏ, trong ánh lửa chập chờn nom càng ma quái. Theo Điêu-krắk không một tộc người nào ở đây có giữ cái “mâm đồng” như mô tả….Chỉ có những bộ cồng chiêng gọi là H'num, R'tuik…từ bốn đến sáu cái. Nếu muốn biết thật rõ thì phải hỏi “Thần Rừng”. Muốn hỏi “Thần Rừng” thì ngày mai phải làm lễ cúng….

    Hôm sau, Điêu-krắk dẫn ĐHC đi vào sâu trong hang hơn nữa, tới cuối hang lại thấy sáng rực, té ra là một cái thung lũng, có một dòng suối chảy róc rách, khung cảnh thật khác xa bên ngoài. Trên các vách đá có một loại cây lá màu tía rất lạ, thầy cúng Điêu-krắk gọi nó là cây ngải đá, nó sống ở trên vách đá cứng, hút tinh chất từ đá nên có linh khí của núi rừng, Điêu-krắk quanh năm suốt tháng ăn ngải chính là ăn cây ngải này. Ông nói “muốn được Thần rừng che chở, muốn tiếp xúc được với những người chủ thực sự của vùng đất thánh linh này thì phải ăn cây ngải đá để thanh lọc cơ thể….thể xác và linh hồn thật sạch sẽ thì mới có cơ may được gặp họ”. Lễ cúng “Thần Rừng” của thầy cúng Điêu-krắk thật khác thường, không hề có một lễ vật gì cả, bởi vì “Thần Rừng” của Điêu-krắk không cần lễ lộc gì cả mà chỉ cần linh hồn …. ĐHC phải quì trên một tảng đá, lót một chiếc khăn thổ cẩm cũ xì, mà phải quì suốt ba ngày, đói thì ăn ngải đá, khát thì uống thứ nước cũng được ngâm từ cây ngải đá….thứ nước này nó đắng kinh khủng, nhưng uống vào thì người giống như bị mất cảm giác, không cảm thấy mệt mỏi, lúc nào cũng say say tỉnh tỉnh. Sau đó Điêu-krắk đọc những câu thần chú bằng tiếng gì đó giống tiếng khme rất lạ để khấn “Thần Rừng”. Như thế cũng chưa đủ, sau ba ngày, Điêu-krắk lại dẫn ĐHC vào sâu hơn nữa trong thung, đến một cái cây cực kỳ to lớn mọc sát bên vách đá dựng đứng, ông ta và ĐHC quỳ xuống làm lễ, gọi đó là cây Ngải thần. Cây Ngải thần này đã hàng ngàn năm tuổi, rễ của nó to và dài hàng chục mét, bám sâu vào vách đá, có rễ vươn lên trời cao như những chiếc vòi rồng vậy. Theo Điêu-krắk, cây Ngải thần ghi nhớ hết mọi chuyện đã qua của núi rừng, muốn biết điều gì thì cứ ngồi bên gốc cây, khấn Thần Rừng, Thần Cây Ngải Thiêng về….Trước đó, Ông ta cắt một mẩu rễ của cây ngải thần bắt ĐHC phải nhai và nuốt vào bụng, chưa bao giờ phải nhai thứ gì mà đắng khủng khiếp như vậy…..Nuốt vào bụng rồi một lúc sau người như mê đi không còn biết gì nữa.
    Trong cơn mê không biết bao lâu, ĐHC thấy mình nhẹ bỗng, bay lơ lửng trong đại ngàn, đến bên một thác nước cao sừng sững, dòng nước trắng xóa như sữa trút ào ào từ trên trời xuống…..phía dưới là dòng suối xanh trong vắt, hai bên là bãi cát trắng ngần, mịn màng, óng ánh đẹp tuyệt vời. Trong lúc đang mơ màng thì thấy một bầy tiên nữ hiện ra mờ mờ ảo ảo, họ mặc trang phục màu trắng phủ kín khắp người, nhưng gương mặt thì vô cùng xinh đẹp. Những tiên nữ mảnh mai, mờ ảo lướt đi nhẹ nhàng trên cát, bay phất phơ trên mặt nước……

    Bỗng như có nước lạnh dội vào người, giật mình tỉnh lại thì thấy thầy cúng Điêu-krắk đang đứng trước mặt, ông ta hỏi ĐHC đang mơ thấy gì mà múa may lung tung vậy, vội kể cho ông nghe về những nàng tiên nữ, Điêu-krắk lắc lắc cái đầu nói “không phải tiên nữ đâu, chính là những con ma rừng đó. Ma rừng luôn luôn biến hình thành tiên nữ để dễ mê hoặc mọi người, người nào mà đi theo nó thì cũng sẽ bị biến thành ma rừng…” may mà ông ta kêu tỉnh dậy kịp lúc chứ không giờ này ĐHC đã thành con ma rồi. Như vậy là vẫn chưa gặp được những linh hồn bất tử của vùng đất thánh linh này. Theo Điêu-krắk, ĐHC uống rượu, ăn thịt, sát sinh quá nhiều nên chỉ trong mấy ngày ăn ngải đá không đủ để thanh lọc được thể xác, nếu muốn thì cần phải ăn ngải và tĩnh tu thêm…vài mươi năm nữa may ra mới có thể được.
    “Nhưng nếu K-krok chịu giúp thì có thể” Điêu-krắk nói “nhưng điều này sẽ gây nguy hiểm cho anh ta”. Phải chờ thêm mấy ngày nữa thì K-krok mới quay trở lại, một con người hùng mạnh như K-krok thì không bao giờ từ chối bất cứ điều gì khi có người cần đến.
    Từ nhiều năm nay K-krok cũng không sát sinh và chỉ ăn duy nhất một món là cây ngải đá nên thân xác và linh hồn anh ta đã trở nên trong sạch…. Nếu ĐHC và K-krok hòa nhập với nhau thì có thể vẫn được thần linh chứng giám để đến được với những linh hồn bất tử, chủ nhân ngàn đời của vùng đất này. Lần này Điêu-krắk lại làm lễ cúng “Thần Rừng” một lần nữa, ĐHC và K-krok lại quì suốt ba ngày ba đêm, đến đêm thứ ba, Điêu-krắk mang đến một cái ché đựng một thứ nước đen sì, đặc sệt. Ông ta cho K-krok uống trước, anh ta uống vào vẫn ngồi im bình thường, đến ĐHC uống vào thì thấy trời đất quay cuồng, suýt té bật ngữa ra sau may Điêu-krắk đỡ được, mấy giây sau thì không còn biết gì nữa……
    Trong cơn mê lại được K-krok dẫn đi, hai người cứ đi mãi trong rừng già, đến một thác nước cao vời vợi, phía dưới là dòng sông chảy xiết, nhìn qua bên kia thấy không còn là rừng già mà đã là một kinh thành nguy nga, tráng lệ - Kinh thành rộng lớn nhưng không một bóng người. Có vô số những cái “mâm đồng” bay lơ lủng, phía trên có khắc mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, núi, sông, ghềnh thác, kinh thành, chim, thú, con người……tất cả đời sống của vùng đất cổ xưa đều hiện lên rõ ràng, đều được khắc họa lên vô số những cái mâm…với đủ mọi hình dạng to nhỏ khác nhau. Thì ra cái mâm mà những đại gia HK sở hữu chỉ là một trong số hàng trăm cái như vậy……. những câu thần chú không bao giờ có đủ trong bất cứ một cái mâm nào….Nó là cả một bài ca dài được khắc lên tất cả những cái mâm đó. Đến một cái mâm cuối cùng, cái “mâm Đồng” to nhất, một bên là hình ảnh của một đền thờ Bàlamôn vĩ đại với bức tượng thờ linh vật Linga và Joni khổng lồ…..Một bên là hình ảnh nữ thần Visnu với đôi mắt sáng ngời, nữ thần của một dân tộc đã bị diệt vong chỉ còn lại trong hư ảnh với một lời nguyền dành cho bất cứ một kẻ nào muốn xúc phạm đến vùng đất thánh linh này phải gánh chịu những hậu quả ghê gớm nhất….

    Khi ĐHC trở về lại quả đồi trọc giữa rừng già thì chỉ thấy NT và Y-Ngây, NT kêu ĐHC lại, anh ta thì thầm “Y-Ngung đã bị con Ma rừng bắt mất hồn rồi, mấy ngày nay anh ta chỉ toàn ăn cóc nhái sống và không nói chuyện với ai nữa”. Như để minh chứng cho lời nói, Y-Ngung xuất hiện, anh ta chẳng buồn để mắt đến ĐHC, trên tay cầm một con cóc vàng ươm, đang giãy….. Y-Ngung đưa con cóc lên miệng nhai rau ráu. Ngay đến cả Y-Ngây mà cũng phải trố mắt lên nhìn, anh ta nói chắc phải đưa Y-Ngung về để thầy cúng Y-Krăk trục con ma rừng. Nhưng chuyện đó không kịp xảy ra vì đến chập tối thì nghe tiếng la hoảng, ĐHC và NT chạy đến thì thấy Y-Ngây đang đỡ Y-Ngung trên tay, cạnh đó là xác một con rắn hổ mang chúa dài khoảng ba mét, to bằng bắp vế. Chắc Y-Ngung trong lúc mải mê theo bắt con nhái đã không thấy con rắn….anh ta bị con rắn cắn một phát rất hiểm vào ngay cổ, Y-Ngung dẫy dụa mấy cái rồi tắt thở, hai mắt anh ta mở trừng trừng nhưng môi còn như đang muốn nói cái gì đó…, phút cuối cùng chắc anh đã nhìn thấy linh hồn cô con gái bé nhỏ yêu thương trên cao xanh đang giơ tay vẫy gọi….
    Y-Ngây không còn tinh thần nữa, anh lấy dây mây quấn chặt xác Y-Ngung lại, anh ta muốn mang xác Y-Ngung trở về.
    Chỉ còn trơ lại ĐHC và NT trên cái đồi trọc hoang vu giữa rừng già, khối đá khỗng lồ vẫn sừng sững không gì lay chuyển được. Trời bắt đầu chuyển sang âm u, gió thổi ào ào, báo hiệu một cơn mưa rừng sắp đến. Chuyến đi này thấy có vẻ không may rồi, đã có những lời nguyền, những cái chết, còn lại có hai người thì làm được gì? Trong bóng tối mù mịt lại như thoáng thấy có bóng người…..Bọn Lý Hòa đã đến.…

    Những chuyến đi rừng dài ngày không ảnh hưởng gì nhiều đến Lý Hòa, da y đã đỏ lại càng thêm đỏ. Ngực nở nang, bắp thịt cuồn cuộn, gương mặt sắc nét như pho tượng đồng hun….. Lý Hòa thuộc típ được nhiều chị em ưa thích, hồi còn làm “bưởng” ở các bãi đào vàng lúc nào cũng có ba bốn em “xinh như mộng” vây xung quanh đại ca Lý Hòa. Vốn quen biết ĐHC đã lâu, nhưng khi gặp y chỉ buông một câu chẳng biết là chào hay hỏi “ Thế thằng Y-Ngung bị con ma rừng bắt rồi à…”. Lý Cắt thì lầm lỳ, nhìn lên nhìn xuống dò xét xem ĐHC và NT đã tìm được những gì, thấy không có gì thì chẳng thèm nói một tiếng. Mãi một lúc sau mới thấy Tăng Xe và Út Lỳ đi ra, Út Lỳ khệ nệ vác một con Mang trên vai còn Tăng Xe cầm một cái bọc chắc là Trầm hương hay Kỳ nam gì đó. Y vốn là dân bảo kê, chém mướn chuyên nghiệp, từng đâm chết người…trên vai có vài ba cái lịnh truy nã nên mới phải theo anh em Lý Hòa sống chui lủi trong rừng đã mấy năm nay. Đi rừng mà Tăng xe cởi trần trùng trục, trên ngực y có xăm một con đại bàng xòe cánh, cặp mắt con đại nom vô cùng hung dữ, dưới móng vuốt của nó là một cô gái tóc tai rũ rượi với hàng chữ “Phụ Tình Là Nghĩa”. Còn Út Lỳ cũng trần trụi y như vậy, nhưng ngực trái lại xăm một con chim se sẻ đang ngậm cái lá tre dưới bóng trăng, phía dưới là hàng chữ “Bạn Phản Là Ơn” đậm nét. Thì ra cặp “đại bàng se sẻ” nổi tiếng hung dữ mấy năm nay chính là cặp này. Tăng Xe thì không nói làm gì, nhưng Út Lỳ vốn con nhà đàng hoàng, nghe đâu bố mẹ nó rất giàu có, chắc là mải mê kiếm tiền quá nên bỏ mặc thằng con theo đám bạn bè xấu chơi bời lêu lổng, từ trộm cắp đi đến trộm cướp….bây giờ khét tiếng giang hồ. Bọn Lý Hòa có vẻ hờ hững với tảng đá trên núi, hiển nhiên bọn này chẳng hiểu gì về đền thờ của Bàlamôn giáo, âu cũng là một điều hay.
    Trời bắt đầu mưa như trút, gió thổi bay luôn cái mái lều nên ĐHC và NT đành chịu trận luôn dưới cơn mưa lớn. NT lạnh run cầm cập, bỗng anh ta ngã lăn ra, chân tay co giựt chắc là lên cơn sốt rét. ĐHC vội nhét vào miệng NT một thanh gỗ và giữ anh ta thật chặt, một hồi thì anh ta hết lạnh lại chuyển qua nóng như hòn than…. Bọn Lý Hòa đã biến đi từ lúc nào, xung quanh không một bóng người. Sét đánh ầm ầm, xẹt xuống một cái cây lớn làm cái cây đổ nhào, rung chuyển cả núi rừng. Mưa tới rạng sáng mới dứt, NT nằm bẹp luôn đi không nổi, ĐHC lấy nước cây ngải đá cho anh ta uống, một hồi thì tỉnh lại, anh ta móc trong người ra một tấm hình cũ mèm, phều phào nói “chuyến này chắc là tôi chết….đây là tấm hình duy nhất của đứa con…mai này nếu chú có cơ hội gặp được nó, xin chú hãy nói là tôi luôn nhớ đến nó, luôn yêu thương nó…chỉ vì hòan cảnh mà cha con phải xa cách…..”- Nói đến đó thì anh ta khóc nấc. ĐHC chặt cây rừng làm tạm một cái lán để NT nằm. Đổi với mấy tay thợ rừng đi ngang qua con rắn Hổ mang chúa và mấy ký thịt con mển được hơn chục ký gạo và cái nồi để nấu cháo ngải cho NT, ăn được ba bốn ngày thì anh ta khỏe lại, bắt đầu đứng lên đi được. Bản năng sinh tồn của con người quả là rất mạnh, qua được cơn sốt rét rừng là NT lại tỏ ra sung sức, hưng phấn như cũ, chắc cũng một phần nhờ món ngải đá, đúng là thần dược của thầy cúng Điêu-krắk.
    Trong mấy ngày ngồi nấu cháo, ĐHC cứ nhìn cái cây bị sét đánh đổ, bất giác nghĩ ra một cách, mừng quá, liền nói NT cố gắng ở lại trông chừng cái đền thờ đổ nát, tức tốc ra huyện lỵ Cát Tiên một lần nữa, lần này đụng phải bọn “Tàu xì” như trên đã kể.
    Không phải chỉ một mình cô chủ hàng cần tìm “anh Bảy”, rất nhiều người nữa cũng đang cần tìm y,… mấy ngày nay ĐHC cũng đang tìm y….“anh Bảy” là ai mà ghê gớm thế…?

    “Bảy Cua” lúc nào cũng đội cái nón phớt màu xám, mặc cái áo màu nhạt và cái quần kaki sậm. Nom y rất lịch sự, nói năng điềm đạm, cử chỉ khoan thai, đúng là mẫu người thích hợp cho những phi vụ làm ăn cửa sau, thoắt ẩn thoắt hiện, thần thông biến hóa, Tề thiên đại thánh mà có gặp y cũng phải chào thua. Từ Madhagui, qua Đạ Huoai, Đạ Tẻh cho đến tận huyện lỵ Cát Tiên, Đức Phổ, Gia Viễn…. Bất cứ ai thuộc vào loại “có răng có tóc” đều là “cốt” của “anh Bảy”. Giới có “máu mặt” thì không thể trực tiếp gặp hạng “tôi đòi”, còn đám “thấp cổ bé miệng” thì cũng không có cửa để gặp được trực tiếp các vị “cầm cân nẩy mực” nên tất cả đều phải thông qua trung gian là “anh Bảy”. “Bảy Cua” lính lác cũng nhiều, chỉ những phi vụ lớn y mới trực tiếp ra tay, còn ba cái chuyện vớ vẩn như mấy bao hàng của cô chủ nhỏ thì chỉ cần viết miếng giấy đưa cho thằng đệ tử chạy đi là xong việc.
    Phải nhờ “a Lưu” chạy tuốt về Định Quán lùng kiếm mãi mới “gặt” được một cặp “Black and White” chính hiệu làm lễ ra mắt. “Anh Bảy” chỉ nhỏ nhẹ “chú sao rườm rà quá, có khó khăn gì thì anh giúp là việc tình nghĩa với nhau, còn “người ta” cần như thế nào thì anh nói với chú tính sau…..đừng có lo gì cả…”
    Việc cần đến “anh Bảy” chỉ là tìm chừng bốn năm mươi tráng niên để cột dây kéo dịch tảng đá ra khỏi chỗ cũ khoảng 2 mét là xong. Công việc đơn giản chỉ có vậy, không có gì to tát, không có gì lớn lao, không có gì nguy hiểm. Nhưng phải chọn đúng thời điểm là vừa sau cơn mưa, đất đang mềm nhão thì việc dịch chuyển tảng đá khổng lồ mới có cơ may làm được. Có “anh Bảy” đứng ra lo liệu thì du kích xã xem như không làm khó dễ….Có K-krok ở đó thì đám thợ rừng bản địa, đám người dân tộc cũng biết mà tránh xa. Công việc chỉ còn chờ một cơn mưa thật lớn, trong lúc đó nhờ NT chạy tốc hành về SG để ẵm xuống thêm độ chục chai nữa đặng “bôi trơn dầu mỡ, lót hầm lót ổ” cho công việc được xuôi chèo mát mái. Mưa rừng thì cũng không phải chờ đợi lâu, độ vài ngày là có một cơn mưa “tối trời tối đất”, mưa vừa xong thì lập tức cho đám trai tráng cùng nhau kéo liền…tảng đá mấy chục tấn vẫn cứ nằm ì, huy động thêm ba chục người nữa cũng không nhích thêm được một ly. Anh Bảy sốt ruột “hay là chịu tốn kêu cái xe bánh xích cho nó kéo…” – “việc này sợ đụng đến lâm trường thì đổ nợ…” – “chú yên tâm, có anh đứng ra thì đố thằng nào dám làm gì…”. Cái xe bánh xích kéo mãi, cày muốn nát đất mà cục đá vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Công việc cuối cùng thất bại, “Bảy Cua” vỗ vai ĐHC nói khéo “thôi anh cũng chịu thua, làm như vậy là hết cách rồi, cục đá này mấy ngàn năm nay sừng sững ở đây chắc có lời nguyền gì đó chứ làm sao mà suốt cả thời gian dài như vậy nó vẫn năm yên vị được”.
    Chẳng được gì mà đâm ra phải tốn cả chục chai, buồn quá, chiều hôm đó ĐHC cùng NT đến “nhà dài” thăm già làng người Châu-Mạ, nghe kể chuyện, già làng cả cười “trước đây cũng có mấy đám mướn thằng “Bảy Cua” làm y như vậy mà có được gì đâu…tảng đá khổng lồ không thể nhúc nhích được, có ba cái vụ này thằng Bảy đâm ra kiếm tiền được bộn”. Thì ra là vậy, “Bảy Cua” đã biết trước là không thể nhích được tảng đá nhưng vẫn cứ làm để kiếm tiền, chứ tảng đá mà nhích được thì cũng không đến phần cho ĐHC, những băng khác đã đào được hố thờ mà lấy đi từ lâu rồi. Tối hôm đó già làng người Châu-Mạ đãi ĐHC và NT uống rượu cần, có thêm mấy cô người dân tộc chân chất, mắt đen, răng đen cùng nghe già làng kể chuyện đến khuya….Sáng hôm sau cả hai thất thểu trở lại rừng, ngồi bên tảng đá trên quả đồi trọc, lần đầu tiên ĐHC nếm trải thất bại thảm hại như vậy….chỉ có tảng đá mà nhích qua không được thì hy vọng gì vào việc tìm cái “mâm đồng”. “Bảy Cua” xem ra cũng là cánh hẩu của “Tàu xì”, nên hôm bữa nghe chuyện “a Lưu” đã tủm tỉm cười, y còn nói “ nếu làm được thì “Tàu xì” đã làm từ lâu rồi….”. Công lao chịu cực khổ vuợt rừng của Y-Ngây, ốm suýt chết của NT, cái chết của Y-Ngung và hơn chục ngày quỳ uống ngải đắng của ĐHC xem ra đã trở nên công cốc. Nhưng bây giờ mà trở về liền thì cũng không được, trong lúc nằm nghỉ trong lán, ĐHC nhớ lại trong cơn mơ đã đi với K-krok vượt qua một cái thác nước cao ngất trời…Cái thác đó ở đâu vậy kìa…?!

    Ở vùng rừng núi này có cả trăm cái thác nước, nhiều cái thác ở sâu trong rừng chưa hề có người biết tới…..Đi cả đời cũng không hết những cái thác ở nơi này. Nếu còn anh em Y-Ngây thì cũng đỡ được phần nào, còn bây giờ….? Tình cờ gặp K-krok đi ngang qua, hỏi đi đâu, anh ta nói “vào mùa mưa ở vùng này có một thứ nấm nhỏ li ti rất độc, có màu đỏ ở trên thân cây tung, lấy thứ nấm này về để thầy cúng Điêu-krắk làm thuốc”. Ngoài hái nấm độc, K-krok còn bắt rắn để lấy nọc, được chứng kiến anh ta bắt rắn thì may ra mới có thể tin được trên đời này có những pháp thuật thật là kỳ diệu. Hồi còn ở bãi đào vàng, ĐHC đã từng chứng kiến màn bắt rắn điêu luyện của Tăng Xe – những ngọn đồi xung quanh bãi đào có rất nhiều rắn hổ mây, khi bị động, chúng uốn mình bỏ chạy cực nhanh. Trên tay Tăng Xe chỉ có một khúc đồng nhỏ chừng một tấc, chẻ ra làm ba, hắn phóng thanh đồng bách phát bách trúng, cắm dính ngang con rắn xuống đất. Con rắn cong người uốn lượn, ngóc đầu lên để mổ, lúc đó y mới múa tay chụp gọn đầu con rắn – cái khoản chụp đầu rắn này hầu như rất ít người dám làm. Hơn nữa Tăng Xe cũng chỉ dám làm với rắn hổ mây, hổ hành hay rắn lục xanh…..là những loại cắn không chết chứ gặp Hổ mang hắn cũng tránh xa. K-krok chỉ bắt rắn Hổ mang chúa, phát hiện có dấu vết hang rắn, anh ta lấy trong bọc ra một cái cọc cao khoảng sáu tấc cắm xuống đất, sau đó quỳ xuống đọc kinh lâm râm, khoảng chừng mươi phút thì con rắn dài cả vài mét ló đầu ra khỏi hang, bò đến cái cọc và quấn xung quanh. Lúc đó nhanh như chớp K-krok chụp lấy con rắn, bóp miệng nó lấy nọc trong tíc tắc vào một cái hộp nhỏ, sau đó anh ta vỗ vỗ vào đầu con rắn, con rắn lại chui vào hang trở lại. Tất cả những thứ này anh ta đều mang về cho thầy cúng Điêu-krắk. Hỏi anh ta về cái cọc đó, K-krok nói của thầy Điêu-krắk, chỉ có duy nhất một cái.
    Hỏi về cái thác, anh ta suy nghĩ một hồi “Ở khu vực dưới này cao nhất chỉ có cái thác “Yàng” trên thượng nguồn sông Đồng Nai nhưng cũng chỉ cỡ hai ba chục sải chứ không cao tới cả trăm sải tay được….” – “Nhưng phía sau thác Yàng còn có một cái thác nữa toàn là vách đá dựng đứng, cao cỡ bốn năm chục sải tay, bao phủ những cây muồng muồng rất giống như ĐHC mô tả. Nhưng thác này lâu nay không ai dám bén mảng đến vì khá nhiều dân đi rừng cả người Kinh, Xtiêng, K-ho, Mạ….bỏ mạng rất nhiều. K-krok cũng đã từng đến nơi này và thấy ở đây âm khí ngập tràn, hơi độc từ trong những cái hang đá trong lòng thác có thể làm chết người như bỡn. Thầy cúng Điêu-krắk nói rằng đó là nơi trú ẩn của những con ma rừng trong những lúc trời sấm sét…Có thể con ma chúa ẩn náu ở đây không chừng.”- Cái thác này có vẻ giống với nơi mà ĐHC đã gặp những con ma rừng trong giấc mơ..…chắc là phải đến tận nơi này xem thử rồi.
    Khu vực này có rất nhiều cây tung nên K-krok ở lại lán với ĐHC và NT. Suốt mấy ngày ĐHC nhận thấy K-krok không hề ăn uống gì thì lấy làm lạ, hỏi thì anh ta nói là trong những ngày đi lấy cây nấm độc và bắt rắn hổ, thầy cúng Điêu-krắk dặn không được ăn uống gì cả, khi nào cảm thấy không chịu nổi nữa thì mới quay về. Thấy công việc không có gì tiến triển, ĐHC và NT quyết định sẽ đi tìm cái thác mà K-krok đã chỉ, NT đã quyết “Chân chiến chinh từng vượt qua đường đạn mìn….đời trai phen này một đi không trở lại, thà chết chứ chẳng chịu tay không ra về”.
    Lần mò theo chỉ dẫn của K-krok, gặp vài người thợ rừng nghe nói tới thì lắc đầu, xanh mặt, sau khi qua khỏi thác “Yàng”, đi theo ven sông hơn nửa ngày đường nữa, rẽ vào một đoạn quanh theo triền của một cái núi thì bất ngờ thấy một thác sừng sững trước mặt. Khác hẳn cái thác “Yàng” tuy cao nhưng sáng rực và âm thanh rộn rã, mấy em gái người Xtiêng ra đó tắm giặt ồn ào - cái thác này nhìn thật âm u, huyền bí……bị bao phủ bởi đủ các loại dây leo, dây muồng muồng quấn lung tung dày đặc, các loại phong lan cũng mọc dầy, xung quanh không một bóng người. Tiếng nước đổ xuống nghe ì ì như tiếng ma gào, quỷ hú….âm khí lan tràn khắp nơi, chưa tối mà hơi lạnh đã thấu đến tận từng đốt xương rồi. Phía dưới suối có một bãi cát vàng mịn màng giống như trong giấc mơ, chỉ khác là không thấy mấy nàng tiên nữ đâu, thay vào đó là vô số những tảng đá ong hình thù kỳ dị, nhìn cứ như là bầy tiểu quỷ, đứa thì đứng, đứa thì ngồi lổm nhổm. Ở đây có vô số các hang đá, nhìn mà muốn chóng mặt, tranh thủ lúc trời còn khá sáng, ĐHC vào thử một hang thì thấy toàn đá thạch anh trắng, lại có cả đá gan gà đủ màu sặc sỡ, vào sâu bên trong thì lại luồn qua một cái hang khác, có vô số cục đá đen bóng đẹp tuyệt….Đi lòng vòng một hồi thì trở lại cái hang cũ, thấy trời đã sập tối nên ĐHC và NT trở ra ngoài, ra đến cửa hang thì thấy một cặp mắt sáng quắc đang nhìn chằm chặp, “Kây Quay” đã ở đó từ lúc nào….

    (còn tiếp)
     
  8. millionairevn Thành Viên Cấp 4

    truyện quá hấp dẫn, ko biết có thật ko ta?
     
  9. chauminhkhanh Thành Viên Cấp 5

    truyện thôi bác ah`
     
  10. rkit.vn Thành Viên Chưa Kích Hoạt

    tryeejn chắc hư cấu
     
  11. denhatkiem Thành Viên Cấp 4

    (theo mình thì thực hư lẫn lộn, tác giả phải là con người từng trãi lắm mới có được những vốn sống để viết những dòng như thế)

    Pháp sư “Kây Quay” không biết là thiện hay ác nhưng phải công nhận ông ta múa kiếm đẹp tuyệt luân. Ông ta mặc một cái áo thụng vàng chóe, phía trước thêu hình con rồng màu xanh đang múa vuốt với hàng chữ “Thanh long đệ nhất bang”, phía sau thêu vòng tròn lưỡng nghi, bên ngoài bao phủ một vòng cung lửa. Đầu để tóc xõa, tay cầm một thanh kiếm sáng ngời, sắc xanh biếc, mỏng như lá lúa, “Kây Quay” ngồi trên một tảng đá lớn, trước mặt là một cái bàn nhỏ phủ khăn đỏ, trên có một xấp giấy dày chắc là các đạo bùa, xung quanh mấy tảng đá nhỏ đặt trên đó là các hồ lô có hình độc trùng : rắn, rít, nhện đen, bò cạp, cóc tía, tắc kè hoa, sâu ống…...tổng cộng là bảy cái. Ông ta ngồi xếp bằng, một tay bắt ấn, một tay múa tít thanh kiếm tạo ra một luồng khí lạnh dào dạt bao trùm cả một vùng. Ông ta không cầm kiếm như bình thường mà thanh kiếm chỉ cặp hờ vào giữa ngón cái và hai ngón trỏ và giữa, chính vì thế mà thanh kiếm mới xoay tít được như chong chóng. Thứ kiếm pháp này đúng là chưa từng thấy nhưng có phần hơi biểu diễn. Bỗng ông ta tung người lên, quát to một tiếng, đồng thời dùng mũi kiếm ghịt lấy một đạo bùa dán lên trên một cái hồ lô. Ông ta nhảy vù vù từ hòn đá này qua hòn đá khác, bộ pháp thật là linh diệu, lúc như con rắn đang uốn mình sát đất, lúc như con diều sà xuống vồ mồi, lúc như con hạc xòe cánh bay lên……thanh kiếm trong tay vần vũ như mưa sa bão táp, tưởng như không phải là một thanh kiếm mà là hàng nghìn thanh đang cùng nhau nhảy múa, trong thoáng chốc bảy cái hồ lô đã được phủ kín các đạo bùa ….Thì ra ông ta đang bắt ma rừng nhốt vào trong những cái hồ lô này, nếu vậy chắc phải kêu….vài ba cái xe tải chở thêm hồ lô nữa may ra mới bắt hết được ma rừng ở nơi này. Không biết ông ta bắt ma rừng về để siêu độ hay để làm âm binh thực hiện những mục đích ám hại người đời…..
    Bỗng “Kây Quay” lại phóng vọt lên, tay nắm lấy một sợi dây leo, thoắt một cái ông ta đã leo lên tít trên cao, khi hạ xuống thì trong tay đã có một con rắn….Con rắn màu xanh biếc, phía trên có một cái sừng nhỏ, cái đuôi có khoang đen khoang đỏ….chính là con rắn lục cườm đầu sừng, chỉ có duy nhất ở vùng này. Dân đi rừng mà thấy con rắn này thì tất bỏ của chạy lấy người, vì nó cắn một cái thì toàn thân tê liệt, mắt đứng tròng, có thuốc giải trong người thì cũng không giơ tay mà lấy được, sau nửa giờ người sẽ mủn ra như con cá mục, chết là cái chắc. Con rắn lục quẫy dữ dội trong tay “Kây Quay”, ông ta lấy trong người ra một cái túi da, nhét con rắn vào trong đó. Xem ra tài nghệ bắt rắn của “Kây Quay” cũng thuộc vào hàng “vô tiền khoáng hậu”. Trong lúc đó “a Lưu” nhanh chóng thu hết các hồ lô cho vào một cái thùng gỗ, mùi dầu thơm của y vẫn sực nức, tóc tai vẫn chải chuốt như ngày nào. “A Chảy” thì đứng im lìm tuốt ở phía xa, cặp mắt cú vọ của y không hề lay động. Y đã mặc lại bộ đồ “sá sẩu” bằng gấm trắng, hàng chữ “sinh tử tại thiên” màu đỏ càng nổi lên bay bướm trong cái thác âm u này. Cái mặt cú vọ vẫn lạnh băng nhưng lại để thêm bộ ria vểnh lên nom mười phần quỉ dị.
    Pháp sư “Kây Quay” mặt không đổi sắc, hơi thở không đổi nhịp, chẳng buồn nhìn ĐHC lẫn NT, xoay người bỏ đi liền, “a Chảy” lầm lỳ đi theo sau, “a Lưu” khệ nệ ôm cái thùng gỗ, còn ráng quay qua nói với ĐHC “tài có nhớ tối đừng ở lại đây, ma quỷ nhiều lắm đó….”

    Bọn “Tàu xì” chắc đã quần nát khu vực này nên cũng không còn hy vọng gì, nhưng NT và ĐHC cũng cố bỏ ra nguyên ngày hôm sau lần mò hết trong mấy cái hang để tìm xem có gì lạ. Nhờ có chai dầu xả tinh luyện nên không sợ rắn, rít, côn trùng độc chứ mùa này vắt nhiều vô số kể, có hơi người là chúng bắn theo vùn vụt. Những cái hang này có vô vàn là những viên bi đất, chúng nằm lung tung lẫn với miểng chum, hũ, lọ bể vương vãi khắp nơi, toàn là gốm cổ. Còn có cả mấy mũi “Qua” bằng đồng đã bị ten xanh phủ kín, đó là một thứ vũ khí của người xưa….Chắc những hang động này cả ngàn năm trước đã có người ở, bây giờ hoang tàn, với những lời đồn đại ma quỷ đến mức người dân tộc cũng không dám héo lánh đến. Đi vòng vo trong mấy cái hang đến xế chiều thì bỗng nhiên không thấy NT đâu nữa….tìm tới tìm lui một hồi thì mới thấy anh ta nằm trong một góc hang nhưng đã bất tỉnh, người mềm như bún, lay mãi không dậy…..chắc anh ta đã bị trúng phải hơi độc trong hang hay là bị ma rừng nhập cũng nên. Chắc ĐHC không bị sao cả là nhờ hơn mười ngày tịnh tâm và ăn ngải, uống nước ngải của thầy cúng Điêu-krắc. Đành phải cõng anh ta lên lưng rồi lấy dây mây cột chặt lại, lần theo vách hang ra đến bên ngoài……Trời cũng đã gần tắt nắng, phải cố đưa NT về cho thầy cúng Điêu-krắc trục con ma rừng chứ để qua đêm biết đâu anh ta sẽ “thăng luôn”.
    Lần mò đi mãi, đi mãi, suốt con đường rừng thăm thẳm gần như không một bóng người, đám thợ rừng và dân tộc ít ai bén mảng đến đây. Cuối cùng cũng đến được Bầu sấu thì trời đã tối hù, nhìn xung quanh một màu đen kịt, khí trời lạnh buốt đến tận xương tủy, rờ đến NT thì thấy anh ta lạnh ngắt như xác chết, nhưng cũng may là trán vẫn còn hơi nóng, tim vẫn còn đập thoi thóp….Xung quanh đầy tiếng côn trùng, ếch nhái ra rả, tiếng cá táp nước oàm oạp, tiếng vượn hú vang vọng, tiếng chim ăn đêm khùng khục hòa vào như bản nhạc đưa tiễn NT về nơi chín suối…..

    Tối mịt như thế này thì không thể đưa NT vượt qua Bầu sấu được nữa rồi, thôi đành phải tùy theo số trời….. ĐHC tìm một chỗ cao ráo nhất mới dám đặt anh ta nằm xuống vì nơi đây cá sấu rất nhiều, lơ mơ là chúng táp bất thình lình, trở tay không kịp. Sau đó gom một số lau sậy khô, củi khô thành một đồng nhỏ để đốt lửa, lúc này đốt lửa là rất nguy hiểm nhưng không có e rằng còn nguy hiểm hơn nữa vì hơi lạnh cũng có thể làm NT “đi luôn” không chừng. Đánh lửa bằng một “cây chẹt” và một thanh “củi” lúc nào cũng phải mang theo trong người. “Cây chẹt” là một thanh gỗ nhỏ được chẻ ra làm đôi ở phần đầu, nhét vào khỏang ba viên đá lửa rồi bế lại thật chặt, còn “củi” là một cuộn giấy dầu dài độ một tấc rưỡi, to bằng điếu xì-gà nhưng có thể cháy âm ỉ được tám tiếng liền. Lửa đốt lên chưa được mươi phút, chưa kịp sưởi ấm hai bàn tay thì nghe có tiếng sạt sạt, mấy con cá sấu thấy động thì bò lại, phải lấy khúc cây dài đập mạnh chúng mới chịu bỏ đi. Cứ phải loay hoay canh cá sấu suốt đêm, không ngủ được. Tình trạng NT thế này, nếu mang ra trạm xá chích thuốc chắc anh ta tỉnh lại, nhưng sợ sẽ khùng khùng như Y-Ngung, lúc đó anh ta quậy phá lung tung, còn khó cứu nữa. Tạm thời để anh ta nằm thiêm thiếp như thế này, mang đến cho thầy cúng Điêu-krắk ông ta dễ cứu hơn. Sáng hôm sau, trong lúc mặt trời vừa ló rạng, may thay có mấy người dân tộc đi bắt cá, liền kêu họ lại nhờ chở đến chỗ thầy cúng Điêu-krắk, nhìn hấy NT trong tình trạng như vậy, họ đỡ anh ta lên thuyền, chở đi liền.
    Thuyền của người dân tộc là nguyên một thân cây lớn, họ dùng lửa khóet lõm chính giữa, sau đó dùng Xà-gạt vát dẹp hai bên nên lướt đi rất nhanh. Qua khỏi Bầu sấu, hai người Xtiêng còn phụ khiêng NT đến tận hang của thầy cúng Điêu-krắk, sau đó họ mới quay đi. Bây giờ đã gần đến giữa trưa rồi. Điêu-krắk và ĐHC mang NT ra tuốt tận chỗ có cây ngải thần, đặt anh ta nằm dưới gốc cây. Sau đó Điêu-krắk lấy nước cây ngải cạy miệng cho NT uống, lấy một quả trứng đặt lên trên ngực, rắc gạo xung quanh, đốt bảy ngọn nến, ông ta lấy ra một cái trống da trâu khá to, cái trống này không đóng như bình thường mà là dùng những sợi mây ràng chặt, căng xung quanh, bắt đầu vừa đọc kinh, vừa đánh trống để xua đuổi con ma rừng. Bài kinh của ông ta thật dài, ĐHC phải thay nến cả thảy ba lần thì mới xong…..lúc đó trời cũng vừa chập tối, NT bắt đầu cựa mình và tỉnh dậy.
    Chuyến đi lần này làm NT sụt cả năm bảy ký, gầy rộc hẳn, anh ta than thở “sau lần này chắc giải nghệ luôn”, thầy cúng Điêu-krắk thì nói anh ta bị như vậy là còn quá nhẹ, có nhiều người phải cúng cả năm bảy ngày mới tỉnh lại. Trong mấy ngày này, ĐHC bỗng nhớ lại cái thác nước đã gặp trên đường đi ở vùng rừng còn thuộc Lâm đồng, cái thác thật cao, thật hùng vĩ, phía dưới cũng có nhiều hang động mà trong lúc đi chưa thám hiểm hết….biết đâu đó chính là cái thác trong giấc mơ ?....

    Hôm sau, trở lại chỗ cái đồi trọc thì thấy K-krok vẫn còn ở đó, xem ra khả năng nhịn ăn uống của anh ta thật phi thường. Quanh quẩn tìm kiếm thêm vài ngày, bỗng một hôm trời mưa như trút, mưa suốt mấy ngày liền, dường như vùng này chưa bao giờ có một trận mưa lớn đến như vậy. Mưa mãi, mưa mãi….nước chảy thành những dòng suối, bụi mưa bay mù mịt như những làn khói mờ không còn thấy gì. Phía trên thượng nguồn thì tạo thành một cơn lũ khổng lồ tràn xuống cuốn đi tất cả. Nửa đêm bỗng nghe một tiếng nổ khủng khiếp, sét đánh vào ngay quả đồi, sáng ra thì thấy một phần quả đồi đã bị sạt xuống, phiến đá khổng lồ trấn trên hố thờ vô tình bị nghiêng qua một bên, xem ra sức người đã không làm được, nhưng trời chỉ làm trong tíc tắc. Đúng là “ý trời”, phiến đá nghiêng qua như vậy thì có thể chui vào bên trong đào sâu xuống được rồi. Nhờ K-krok làm lễ cúng tạ Thần rừng xong, tranh thủ trong lúc trời còn mưa, nước còn ngập, thợ rừng chưa qua lại nhiều, ĐHC và NT ra sức đào, còn nhờ K-krok canh ở phía trên. Đào xuống khoảng hơn thước thì gặp toàn đá hộc, đành phải một người ở trên, một người ở dưới đưa đá lên từ từ. Xuống sâu hơn hai mét thì phải làm một cái giỏ bằng mây rồi dòng xuống mới kéo đá lên được. Đào liên tục hơn mấy ngày không nghỉ, phiến đá khổng lồ hàng chục tấn ngay trên đầu, nó mà ụp xuống thì chết là cái chắc. Qua khỏi lớp đá hộc thì đã sâu khoảng hơn bốn mét thì đến lớp đá thạch anh trắng, sau đó là lớp cát mịn trong lớp cát này có một cái hũ sành nhỏ, chắc là đựng tro cốt của một Thầy cúng hay Chức sắc…thời đó, hũ tro này sẽ cần phải chôn trở lại chứ lấy nó là thậm phần nguy hiểm. Người Bàlamôn quan niệm cuộc sống ở dương gian chỉ là cuộc sống tạm, cuộc sống sau khi chết đi mới là vĩnh cửu, vì thế hũ tro này chính là linh vật quý nhất trong một cái hố thờ. Vàng bạc, đá quí đối với họ không là gì cả, rất hiếm khi họ chôn theo. Chính vì vậy tuy cái hố thờ được chôn công phu như vậy nhưng ít khi có đồ quý như mộ của người Sa hùynh hay mộ của vua chúa, quan lại thời phong kiến…..Tìm mãi trong lớp cát mịn mới được hai miếng vàng nhỏ có khắc chữ phạn cổ và các hình vẽ thú vật……cuối cùng hiện vật mong chờ mãi cũng xuất hiện, một pho tượng thần Silva có bốn tay bằng đất nung còn nguyên vẹn. Pho tượng chỉ cao khoảng bốn tấc, trải qua hàng ngàn năm vẫn không một tỳ vết….
    K-krok cũng đã đến lúc phải quay về, NT sẽ mang pho tượng và hai miếng vàng nhỏ theo anh ta về chỗ thầy cúng Điêu-krắk để ông ta làm lễ cúng thần sau đó sẽ tính sau…..còn ĐHC quay ngược trở lên cái thác giữa rừng già tìm lại một lần cuối cùng nữa cho chắc chắn. Công việc được quyết định nhanh chóng vì đám “Tàu xì” hay bọn Lý Hòa mà phát hiện ra phiến đá bị sạt nhất định sẽ kéo đến ngay.
    K-krok và NT vừa kịp chạy đến Bầu sấu thì đã thấy “Tàu xì” và pháp sư “Kây Quay” đứng chờ từ hồi nào, tin tức của họ đúng là nhanh thật….


    (còn típ)
     
  12. millionairevn Thành Viên Cấp 4

    hôm qua mới đọc xong bên trang hoangthantai, kết thúc lãng thấy mồ. công nhận bác ĐHC làm văn hay ghê, truyện khá ly kì, làm phim chắc cũng hay lém.
     
  13. bem_shop Thành Viên Vàng

    chữ dày đặc, đã cận đọc xong khỏi đọc nữa lun !!!
     

Chia sẻ trang này